Bài đăng

Hiển thị các bài đăng có nhãn Nhân vật & Sự kiện

6279. Phạm Duy Nghĩa cứ lầm lũi bước trên con đường của mình.

Hình ảnh
Phạm Duy Nghĩa cứ lầm lũi bước trên con đường của mình PNTB/ Nguyễn Ngọc Dương Cuối năm 2002 tình cờ Trần Hữu Sơn, Giám đốc sở Văn hóa Thông tin, kiêm Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Lào Cai đưa cho tôi cuốn truyện ngắn Tiếng gọi lưng chừng dốc , NXB Văn học 2002, của Phạm Duy Nghĩa , giáo viên dạy văn Trường Cao đẳng Sư phạm Lào Cai. Tôi đọc và rất ngỡ ngàng vì Nghĩa chưa phải Nhà văn (theo cách hiểu của mọi người, “Nhà văn” phải là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam). Thậm chí đến năm ấy, 29 tuổi, Phạm Duy Nghĩa chưa từng đứng tên trong một tổ chức “hội” nào cả. Đơn giản, anh chỉ là một thầy giáo dạy văn, còn trẻ, chưa vợ! Nhưng tập truyện ngắn đã ám ảnh tôi và thôi thúc tôi phải gặp Nghĩa. Tôi bảo, chú rất ngạc nhiên khi đọc tập truyện ngắn đầu tay của Nghĩa. Chú nghĩ chỉ cần một tập truyện đó, tác giả đã thừa tiêu chuẩn để làm Hội viên Hội VHNT tỉnh. Nhưng anh có thích vào Hội không? Vốn rất ít nói, Nghĩa chỉ “vâng, được vậy thì tốt chú ạ”.  Khởi nghiệp từ sinh viên tốt nghiệp khoa

6278. Hồi ký của Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer về việc xây cầu Long Biên

Hình ảnh
Hồi ký của Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer  về việc xây cầu Long Biên   Cầu Long Biên, một cây cầu bằng thép bắc qua sông Hồng năm 1898 là một trong những cây cầu lớn nhất thế giới lúc bấy giờ. Nó không chỉ thể hiện sức mạnh về kinh tế mà nó còn là niềm kiêu hãnh về khoa học kỹ thuật hiện đại của người Pháp trên toàn cõi Đông Dương. Dưới thời Pháp thuộc cầu Long Biên còn có tên gọi là cầu Doumer, tên của Toàn quyền Đông Dương (Paul Doumer) có nhiệm kỳ tại Đông Dương đúng bằng thời gian xây dựng cầu (1897-1902). Để góp phần tìm hiểu lịch sử cây cầu này, xin giới thiệu những dòng hồi ký của Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer viết về việc xây cầu Long Biên và một vài cây cầu khác trên đất nước Việt Nam, do Nguyễn Văn Trường, công tác tại Trường Viễn Đông Bác cổ Pháp tại Hà Nội trích dịch từ cuốn hồi ký Đông Dương thuộc Pháp của Paul Doumer, in tại Paris, nhà xuất bản Vuibert & Nony, năm 1930. ***** “Có một việc cần thiết phải làm ngay đối với tôi. Đó là xây một cây cầu lớn bắ

6277. HỌC SỬ, SỬ HỌC VÀ NHÀ NGUYỄN

Hình ảnh
HỌC SỬ, SỬ HỌC VÀ NHÀ NGUYỄN (Bài của Truong Huy San, t rên dòng thời gian f.b Thứ Hai,13/6/2022) Nhà thơ Nguyễn Duy Ngày 10-6-2022, phát biểu tại Lễ Kỷ niệm 40 năm Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, nhà thơ Nguyễn Duy kể: “Tháng 8-1998, tôi và anh Tô Văn Trường (Viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam), tháp tùng Cụ Sáu (Cố vấn Võ Văn Kiệt) đi Tứ Giác Long Xuyên. Bên bờ kênh Vĩnh Tế, gợi nhiều câu chuyện về Nhà Nguyễn… vậy mà, tên tuổi các Chúa Nguyễn, các Vua Nguyễn đều bị xóa, cả một triều đại lớn của dân tộc bị hạ bệ, bị vong ơn… Tôi đề xuất: Phải làm cuộc hội thảo quốc gia về Nhà Nguyễn. Cụ Sáu hưởng ứng và “xắn tay áo” cùng với tôi lao vào cuộc vận động. Nhưng làm ở đâu? Và ai làm? Sài Gòn thì không thể được rồi. Huế cũng không. Tôi đề nghị Thanh Hoá. Chỉ Thanh Hoá mới có thể làm được. Trầy trật gần 10 năm. Trước kỷ niệm 450 năm Nguyễn Hoàng đi mở cõi (1558-2008). Cụ Sáu vận động Hội Khoa học lịch sử (GS Phan Huy Lê lúc ấy đương kim chủ tịch) lo phần nội dung. Tôi

6276. Ngày ấy có một cán bộ như thế

Hình ảnh
Ngày ấy có một cán bộ như thế (Ký ức về anh Nông Trung ký của Nguyễn Ngọc Dương Hồi công tác ở Hội VHNT tỉnh, một lần gặp lại GS Đặng Nghiêm Vạn (1930 – 2016), khi ông là Phó viện trưởng viện Dân tộc học, Viện trưởng viện Tôn giáo, người thầy đã giảng về Tôn giáo cho chúng tôi trước kia, tôi có hỏi về anh Nông Trung. GS Đặng Nghiêm Vạn nói: “Anh Nông Trung trước đây là cán bộ nghiên cứu của Viện tôi. Anh là một người đức độ, có nhiều triển vọng trở thành một nhà khoa học.”. TS Trần Hữu Sơn, nguyên Giám đốc sở Văn hóa – TT & DL Lào Cai, nay là Phó chủ tịch Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam, từng là thuộc cấp của Nông Trung, có lần nhắc lại ý kiến của GS-TS Bế Viết Đẳng (1930 – 1998), nhà nghiên cứu dân tộc học uy tín, nguyên Viện trưởng Viện Dân tộc học đã nói về Nông Trung: “Anh Nông Trung, dân tộc Giáy, mặc dù xuất thân ở một vùng quê nghèo tỉnh Lào Cai, nhưng anh đã học qua đại học khoa Sử, bộ môn dân tộc học và tỏ ra là một người rất có năng khiếu nghiên cứu…”. Tuy nhiên, c

6275 - Cánh cò

Hình ảnh
Cánh cò trên cánh đồng Mường Qua  PNTB/ Nguyễn Ngọc Dương Ảnh: Ngọc Dương Một lần tôi cùng NSNA Phạm Ngọc Bằng đi chụp ảnh Cò ở Mường Qua (Huyện Bát Xát, Lào Cai), nơi chủ yếu là cộng đồng người Giáy đã sinh sống lâu đời, chỉ cách T.P Lào Cai chừng hơn chục km về phía Bắc. Bằng bảo, ở Lào Cai chỉ nơi đây mới nhiều Cò. Đến Mường Qua, tôi bỗng nhớ cố nhà thơ Lò Ngân Sủn. Trước khi trở thành nhà thơ, Lò Ngân Sủn là một người “con của núi”. Chú bé ấy sinh ra và lớn lên ở nơi đây. Từ nhỏ, Lò Ngân Sủn đã lắng nghe từng hơi thở của cỏ cây, hoa lá, của núi rừng biên cương, đã đắm mình trong vẻ đẹp hùng vĩ của sông suối, của sườn non xanh và cánh đồng lúa vàng … nơi quê hương xứ sở. Mường Qua là xã vùng cao nằm ở phía hữu ngạn con sông Cái. Đó là một điểm nằm trên đoạn sông Hồng, biên giới Việt Trung, có độ dài 70 km bắt đầu từ Lũng Pô đến TP. Lào Cai. Bài thơ “Chiều biên giới” được Lò Ngân Sủn sáng tác năm 1980, sau khi nổ ra cuộc chiến tranh 17/02/1979 mà ngay sáng sớm hôm đó, tại đâ

6271. Ấn tượng câu nói của Tổng Bí thư

Hình ảnh
Ấn tượng câu nói của Tổng Bí thư PNTB Năm 2021, TBT Nguyễn Phú Trọng, kiêm Trưởng Ban chống tham nhũng trung ương, người được nhân dân phong danh hiệu “Người đốt lò vĩ đại” đã đọc nhiều bài diễn văn trên các diễn đàn để giáo dục đội ngũ cán bộ. Nhưng hầu như các bài diễn văn dài dòng, (có thể do thư ký chấp bút) với những lời lẽ quen thuộc như “cán bộ phải rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống suy thoái, chống diễn biến tư tưởng” … thì hầu như ít ai nhớ, nó vào tai này rồi lại ra tai kia, trơn tuột như nước đổ lá môn, cấm để lại dấu ấn gì. Nhưng gần đây, thấy ông hay dùng ca dao, tục ngữ, thành ngữ, thậm chí cả những câu thơ, câu Kiều để dạy cán bộ. Đại loại như: “Người trên ở chẳng chính ngôi/ để cho bên dưới chúng tôi hỗn hào” , ý bác bảo những anh đứng đầu phải gương mẫu. Hoặc “Nghĩ mình phương diện quốc gia / Quan trên trông xuống, người ta trông vào” , có lẽ bác muốn bảo mọi hành động trong công tác, lối sống trước hết phải nghĩ đến cái vị thế của mình, đừng tự bôi nh

6268. Lãnh thổ Việt Nam chưa bao giờ được như thời vua Minh Mạng

Hình ảnh
Lãnh thổ Việt Nam chưa bao giờ được như thời vua Minh Mạng. Nhà Nguyễn có công vô cùng to lớn trong mở rộng lãnh thổ Việt Nam. Điểm qua vài dữ liệu để biết ơn tiền nhân, không quên lịch sử. Từ năm 1611 – 1816 vua chúa nhà Nguyễn đã mở rộng bờ cõi từ Phú Yên cho đến tận Hà Tiên. Cùng với việc mở rộng lãnh thổ trên đất liền, vua chúa nhà Nguyễn lần lượt đưa người ra khai thác và kiểm soát các hòn đảo lớn và quần đảo trên Biển Đông và vịnh Thái Lan. Quần đảo Hoàng Sa được khai thác và kiểm soát từ đầu thế kỷ XVII, Côn Đảo từ năm 1704, Phú Quốc từ năm 1708 và quần đảo Trường Sa từ năm 1711. Năm 1816, vua Nguyễn Ánh cho cắm cờ xác định chủ quyền tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tháng 12 năm Kỷ Mão (đầu năm 1820), vua Gia Long Nguyễn Phúc Ánh qua đời. Tháng giêng năm Canh Thìn (1820), Nguyễn Phúc Đảm (25/5/1791-20/1/1841) lên nối ngôi, đặt niên hiệu là Minh Mạng. Minh Mạng là một vị vua tài giỏi siêng năng, thức khuya dậy sớm, thắp đèn đọc sớ chương đến canh ba mới ngh