6161. Nhân Quốc hội bàn về Biển Đông: Hoàn cảnh - Tâm thế - Tầm nhìn - Di sản
NHÂN QUỐC HỘI BÀN VỀ BIỂN ĐÔNG: HOÀN CẢNH – TÂM THẾ – TẦM NHÌN – DI SẢN
Tác giả: Lê Vĩnh Triển
Tác giả: Lê Vĩnh Triển
“Quốc gia có thể nghèo… nhưng trí thức
và lãnh đạo quốc gia không được hèn…”
Theo Bay lên Việt Nam
BBT: Tác giả cho rằng các bước đi hiện tại của
lãnh đạo quốc gia nên được đặt trong một tầm nhìn dài hạn, chủ động hướng đến
một di sản gồm một ý thức dân tộc độc lập, một non sông phát triển vững bền,
một Việt Nam cường thịnh đủ sức răn đe đối với bất cứ thế lực bành trướng nào,
đặc biệt từ Trung Quốc.
Bài viết của TS Lê Vính Triển đăng trên tạp
chí Một thế giới khi Quốc hội Khóa XIV đang họp tại Hội trường Diên Hồng bàn về
Biển Đông. Đến nay, khi Biển Đông ngày một nóng lên với các cuộc tập trận của Mỹ,Nhật,
Ấn,Trung… bài viết vẫn còn nguyên giá trị. BLVN trân trọng giới thiệu
---------------------
Đánh
giá các tranh luận, trao đổi thời gian gần đây trên các phương tiện truyền
thông, qua mạng xã hội và một phần qua báo chí chính thống về sự ngang ngược
của Trung Quốc đối với các nước nhỏ hơn trong khu vực – đặc biệt với Việt Nam,
Trung Quốc đã tỏ ra không chút kiêng dè, ngang nhiên xâm phạm vùng đặc quyền
kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam – người viết cảm nhận mối quan hệ giữa quá
khứ, hiện tại và tương lai của đất nước, và nhận thấy có ảnh hưởng nhân quả của
hoàn cảnh đất nước đến tâm thế, đến tầm nhìn của trí thức, doanh giới và chính
quyền, từ đó hình thành nên di sản của họ cho tương lai đất nước (tác giả nhấn
mạnh hai thành phần trí thức và chính quyền như đại diện cho dân một nước).
Tác
giả cho rằng các bước đi hiện tại của lãnh đạo quốc gia nên được đặt trong một
tầm nhìn dài hạn, chủ động hướng đến một di sản gồm một ý thức dân tộc độc lập,
một non sông phát triển vững bền, một Việt Nam cường thịnh đủ sức răn đe đối
với bất cứ thế lực bành trướng nào, đặc biệt từ Trung Quốc.
HOÀN CẢNH, TÂM THẾ & TẦM NHÌN
Cha
ông ta hay nói cái khó bó cái khôn; nghèo sinh hèn. Đây là đúc kết phổ biến ở
góc độ cá nhân, gia đình. Nói “phổ biến” vì một mặt không hẳn sẽ đúng với mọi
cá nhân, gia đình gặp khó, và mặt khác có người không gặp khó vẫn không khôn
hay giàu nhưng vẫn hèn.
Có
những cá nhân, gia đình tuy nghèo nhưng tâm thế không hèn, quyết chí vươn lên,
vượt qua số phận vì bản thân (nếu là cá nhân) và bố mẹ (nếu là gia đình) có
được tầm nhìn – nhận thấy được cơ hội và kỳ vọng vào thay đổi trong tương lai,
giữ vững cơ nghiệp, bí quyết gia truyền… hay đơn giản là tập trung vào sự học,
tránh những cám dỗ tiền bạc nhất thời chẳng hạn, thì cá nhân, gia đình đó sẽ tuy
nghèo mà không hèn, thoát khỏi cảnh nghèo, có được sự kính trọng từ bên ngoài,
nhờ vào quyết tâm và tầm nhìn của mình. Có tầm nhìn sẽ giúp họ có quyết tâm vì
đã rõ con đường.
Đó
là góc nhìn cá nhân, gia đình. Ở phương diện quốc gia, một quốc gia là tổng thể
các gia đình, lãnh đạo quốc gia không được cho phép mình hèn kém vì nếu thế sẽ
làm quốc gia hèn kém. Lãnh đạo quốc gia không được thiếu tầm nhìn, vì nếu thế
sẽ làm bại hoại cả một dân tộc. Không thể như cá nhân hay gia đình bị cái khó
bó cái khôn, nghèo hèn, quốc gia có thể có những lúc nghèo nhưng không thể hèn,
trí thức (nghĩa rộng – dân) và chính quyền của quốc gia đó không được hèn kém
(tâm thế kém cỏi) mới mong có một tầm nhìn dài hạn, đi trước và chủ động trước
các thay đổi của thế giới và khu vực, không đợi đến khi thay đổi diễn ra rồi
thụ động đối phó và lệ thuộc.
Trí
thức và lãnh đạo quốc gia phải cảnh giác với tâm thế nhu nhược do bị ảnh hưởng
bởi hoàn cảnh khó khăn của đất nước – không để tâm lý cái khó bó cái khôn,
nghèo nên hèn giống như những cá nhân, gia đình thiếu trí tuệ và viễn kiến
trong nuôi dạy con cái mình. Quốc gia có thể nghèo (GDP thấp chẳng hạn) nhưng
trí thức và lãnh đạo quốc gia không được hèn thì mới có thể có một tầm nhìn xa
rộng đưa đất nước thoát nghèo mà vươn lên.
Gần
đây, có một số trí thức cho rằng nước ta nghèo nên phải nhịn nhục, đồng thời
diễn dịch lịch sử Việt Nam theo hướng này. Rằng Việt Nam nên học theo cha ông
ta đã nhịn Trung Quốc như từ bao đời phong kiến. Họ dẫn chứng về việc xin phong
vương của các vua Việt Nam và việc triều cống của các triều đình Việt Nam với
các triều đình Trung Quốc.
Họ
còn cho rằng Việt Nam là nước nhỏ và yếu hơn Trung Quốc nên phải nhịn nhục,
chấp nhận thân phận nhược tiểu. Với những lý lẽ này, họ biện minh cho mọi cách
thức nhường nhịn và bằng mọi giá tránh gây phiền phức cho Trung Quốc vì Trung
Quốc giờ là một đại cường còn Việt Nam là nước nhỏ đang lệ thuộc Trung Quốc mọi
mặt.
Thật
đáng buồn cho tâm thế hèn kém xuất phát từ sự đánh giá tình trạng đất nước như
thế này. Có thể thấy những trí thức với tâm thế như vậy sẽ không trình bày được
một tầm nhìn nào cho tương lai và triển vọng của đất nước, có thể nói họ lo sợ
sự trả đũa của Trung Quốc đến tê liệt và không đưa ra được một giải pháp nào để
đối phó. Có thể cho rằng nếu đất nước có giàu hơn sẽ vẫn tồn tại những thành
phần với tâm thế này. Vì họ, dù có nghèo hay giàu, vẫn hèn như phân tích ở trên
về góc độ cá nhân, gia đình.
Thế
tại sao có thể nói sự diễn dịch lịch sử của họ là ngụy biện. Thứ nhất, ông cha
ta có thể đã chấp nhận là nước nhỏ, cần giữ hòa khí (cấp thuyền, ngựa cho tàn
quân của giặc ra về sau các cuộc chiến; xin sắc phong vương rất hình thức) chứ
ông cha ta không hèn.
Mong
muốn hòa bình nhưng không bao giờ nhân nhượng khi một tấc đất cương thổ bị xâm
hại. Ông cha ta chấp nhận là nước nhỏ (tiểu), cần giữ hòa khí để phát triển chứ
không hề yếu (nhược). Nguyễn Trãi đã rất dõng dạc “Dẫu cường nhược có lúc khác
nhau/Song hào kiệt đời nào cũng có”. Rất rõ ràng, ông cha ta còn xác định cường
– nhược hai bên có lúc này lúc khác chứ không phải lúc nào ta cũng yếu kém và
phương Bắc lúc nào cũng hùng mạnh. Ngay trong hoàn cảnh các triều đại Trung Hoa
hùng mạnh, thậm chí hung tợn, hừng hực khí thế, tràn sang xâm chiếm nước ta thì
cũng thường bị đánh tơi bời…
Một
vài ví dụ:
–
Lê Đại Hành/Lý Thường Kiệt phá Tống bình Chiêm, đặc biệt thời Lý Thường Kiệt
nhà Tống của Vương An Thạch là cực kỳ hưng thịnh.
–
Trần Hưng Đạo ba lần đại phá Nguyên Mông khi đế quốc Mông Cổ hùng mạnh nhất
lịch sử (Việc Mông Cổ và Mãn Thanh cai trị Trung Quốc sau này cũng là cái tát
nặng nề vào cái thiên hạ quan tự huyễn hoặc của chính Trung Quốc).
–
Lê Lợi/Nguyễn Trãi chống nhà Minh hùng mạnh, xây dựng nhà Lê có những giai đoạn
trong lịch sử phát triển rực rỡ không thua kém gì các lân bang.
–
Tây Sơn đánh tan tác quân nhà Thanh thời Càn Long cực thịnh…
–
Thời Gia Long, Minh Mạng, bờ cõi Việt Nam mở rộng chưa từng có. Nhà Thanh giai
đoạn đó không chắc hùng mạnh hơn Việt Nam…
Đó
là chưa bàn đến khía cạnh ngụy biện về bối cảnh. Thế giới ngày nay là toàn cầu
hóa chứ không phải thời quan hệ “cá lớn nuốt cá bé” giữa các nước như thời
trung cổ. Các quốc gia ngày nay hành xử với nhau còn phải tuân thủ theo luật
pháp quốc tế, các quốc gia lớn ngày nay không thể hành xử bạo ngược như thời
phong kiến.
Nếu
nước lớn có tâm thế bạo ngược, bất tuân luật pháp quốc tế và các nước nhỏ nếu
cứ duy trì tâm thế hèn kém và không tin vào luật pháp quốc tế thì chính bản
thân các nước nhỏ đã tự đặt mình vào thế áp đặt của chính các nước lớn, và tự
đánh mất sức mạnh của thời đại mà mình đang dự phần. Hay có thể nói, các nước
nhỏ nếu có tâm thế như thế đã chấp nhận sự bất tuân luật pháp quốc tế của các
nước lớn.
TÂM THẾ, TẦM NHÌN VÀ DI SẢN
Có
thể nói rằng, khả năng lãnh đạo các nước nhỏ rơi vào tâm thế nhu nhược là lớn
hơn lãnh đạo ở các nước lớn, từ đó tầm nhìn hạn hẹp, mơ hồ thiếu tự chủ, tự
biến mình thành con cờ của các nước lớn bạo ngược. Muốn không để tình trạng này
xảy ra, lãnh đạo các nước nhỏ phải luôn xây dựng cho mình tâm thế mạnh mẽ, trí
tuệ và viễn kiến xa rộng, chủ động tham gia vào điều chỉnh các quan hệ quốc tế,
từ đó đưa đất nước tiến lên và mục tiêu sau cùng là một quốc gia vững mạnh cản
trở các đe dọa từ các nước lớn bạo ngược.
Nếu
không có tâm thế và tầm nhìn như vậy, Lý Quang Diệu đã không thể để lại một di
sản là một Singapore nhỏ bé mà vững vàng và được tôn trọng. Nếu không có tâm
thế và tầm nhìn như vậy, lãnh đạo các quốc gia như Nhật Bản khi canh tân đất
nước thế kỷ 19 và sau thế chiến II đã không thể biến nước Nhật thành siêu cường
khiến Trung Quốc không thể đe dọa (nếu không nói là ngược lại).
Tương
tự như vậy, nếu các lãnh đạo không có tầm nhìn để thấy được yêu cầu dân chủ hóa
đất nước trong thập niên 1970, 1980 thì các nước như Đài Loan và Hàn Quốc đã
không có được sự tin tưởng ủng hộ từ các nền dân chủ phương Tây, không có được
sự bứt phá về kinh tế và ý thức hệ so với Trung Quốc, để đưa đất nước thoát bẫy
thu nhập trung bình, tiến lên mạnh mẽ và hạn chế những đe dọa thôn tính từ
Trung Quốc.
Cũng
như các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và xa Trung Quốc hơn một chút về mặt
địa lý là Singapore, Việt Nam là một nước tương đối nhỏ so với Trung Quốc. Định
mệnh đã đặt Việt Nam bên cạnh một quốc gia khổng lồ về mọi phương diện. Đối với
một quốc gia như Trung Quốc, dễ nhận thấy rằng lãnh đạo của họ một cách tự
nhiên thủ đắc một tâm thế bạo ngược và tầm nhìn xa rộng.
Với
dân số gần một phần năm dân số thế giới, lãnh đạo của họ không có tầm nhìn,
tham vọng chiếm đoạt thiên hạ mới là điều khó hiểu hơn. Nói nôm na, trong cuộc
chơi 5 người dễ nhận ra rằng một cá nhân sẽ dễ nảy sinh tham vọng và dễ có cơ
hội tranh đoạt làm bá chủ hơn. Nếu so với Việt Nam, dân số một phần bảy mươi
của thế giới, một mình Việt Nam sẽ gần như không có tâm thế đoạt thiên hạ, bắt
69 người kia làm chư hầu cho mình.
Như
vậy, Việt Nam đã luôn thường trực đối mặt với sự bạo ngược của Trung Quốc, luôn
chịu ảnh hưởng tiêu cực và trực tiếp bởi tầm nhìn của lãnh đạo Trung Quốc.
Trong hoàn cảnh như vậy, nếu trí thức và lãnh đạo Việt Nam không cảnh giác với
tâm thế nhu nhược vốn dĩ là rào cản cho một tầm nhìn xa rộng; không sở hữu một
tầm nhìn xa rộng, đoán định được những thay đổi và cơ hội của thời cuộc mà cứ
lay hoay hỏi, bàn và giải quyết hậu quả của các vấn đề trong nước và các biến
động địa chính trị một cách bị động, họ sẽ để lại một di sản nhãn tiền là một
đất nước “không muốn phát triển”, doanh giới thiếu động cơ vươn lên, một giới
trí thức lười suy nghĩ, một chính quyền ngày càng lệ thuộc vào Trung Quốc vốn là
nước luôn xuất hiện những lãnh đạo với tâm thế bạo ngược và tầm nhìn thôn tính
thiên hạ, thiên hạ là thần dân của Trung Hoa (thiên hạ quan).
Dù
biết rằng trong lịch sử, thiên hạ quan của lãnh đạo Trung Hoa có lúc đã bi đánh
cho vỡ mặt (Mông Cổ, Mãn Thanh từng cai trị Trung Hoa, cũng như nhà Thanh với
tâm thế hèn kém vẫn tự coi mình là trung tâm vũ trụ, đã bị tám nước liên quân
đánh cho tơi tả).
Cần
phải nhận thức rõ ràng rằng, lãnh đạo Trung Quốc bao đời vẫn xem thiên hạ là
chư hầu của họ, tất cả các học thuyết phát triển của họ dù vay mượn từ bên
ngoài cũng đều phục vụ cho việc làm bá chủ thiên hạ mà trước hết là thôn tính
các nước lân bang hèn kém. Nếu các nước nhỏ lệ thuộc vào ý thức hệ của họ, xem
đây là tầm nhìn chung, sẽ dẫn đến lệ thuộc, mất tính độc lập trong tư duy. Do
không có một tầm nhìn độc lập và chủ động thì cuối cùng sẽ bị rơi vào bẫy, phục
tùng thiên hạ quan của họ.
Việc
Trung Quốc leo thang các hoạt động quấy phá ở Biển Đông, đặc biệt sự kiện bãi
Tư Chính, đã bộc lộ rõ tham vọng của chính quyền Trung Quốc trong việc độc
chiếm Biển Đông. Việt Nam cần thể hiện rằng các vấn đề về biên giới lãnh thổ là
không thể bị ràng buộc bởi bất cứ rào cản ý thức hệ nào, dù có ngụy trang bằng
“tầm nhìn chung”, nhằm trói tay Việt Nam trong việc lên tiếng bảo vệ lãnh thổ
của mình. Việt Nam cần cẩn trọng đối với cái gọi là “tầm nhìn chung” mang màu
sắc ý thức hệ này, nó có thể khiến chúng ta mất đi sự ủng hộ mạnh mẽ của các
quốc gia khác.
Cuối
cùng, việc học hỏi trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội có thể là cần thiết.
Tuy nhiên, nếu quá rập khuôn sẽ dễ dẫn đến sự lệ thuộc và tâm lý ngày càng ỷ
lại vào mô hình Trung Quốc. Từ đó dễ dẫn đến sự triệt tiêu sức sáng tạo và tầm
nhìn độc lập. Nếu lãnh đạo và giới trí thức trong nước không còn tham vọng tìm
ra hướng đi riêng, trang bị một tầm nhìn xa rộng, chủ động cho mình thì sẽ
không thể dẫn dắt đất nước đến phồn vinh, mạnh mẽ – là di sản cho con cháu đời
sau gìn giữ và phát triển.
Bài
học các nước Đông Á nêu ở trên trải qua hai thế kỷ đã chỉ rõ: độc lập tư duy,
độc lập về tầm nhìn riêng của dân tộc là khởi đầu của tự cường và thịnh vượng!
“Dẫu
cường nhược có lúc khác nhau/Song hào kiệt đời nào cũng có”… Nguyễn Trãi từng
nói.
Nguồn:
Lê Vinh Triển / Bay Lên Việt Nam
Nhận xét