6113. Có những “bên thua cuộc” khác
Có
những “bên thua cuộc” khác
Tác giả: Đinh Hoàng
Thắng
Thế
giới là cuộc cờ vĩ đại mà các cường quốc thường là những tay “chơi cờ độn
nước”. Kẻ thức thời nên biết chọn loại cờ nào. “Ai cho kén chọn vàng thau tại
mình”. Cờ Tàu, tốt muôn đời vẫn là con tốt, kể cả khi nó chiếu được tướng. Cờ
Tây, chơi đến tận hàng cuối, tốt có thể về hậu. Nhưng cờ Tây thì phải đi với
nhau đến tận cùng mới có kết quả. Phải biết gắn mình vào thế trận chung với các
quân cờ khác, dù đó là vua hay hậu, tượng, xe, để đi đến thắng lợi.
Hệ
tư tưởng trong chiến tranh Việt Nam nhiều khi chỉ là lớp vỏ bên ngoài. Ta – Tây
– Tàu, giữa đồng chí cùng “phe” vẫn thấu thị được bản chất các sáo ngữ. Sau
chiến tranh, những tưởng ý thức hệ hết chỗ đứng. Nhưng không! Cứ mỗi thập kỷ
qua đi, dưới lá bài “cùng chung vận mệnh”, một dạng hệ tư tưởng trá hình, Bắc
Kinh lại đạt được những bước tiến mới trên con đường độc chiếm Biển Đông và
bành trướng xuống Đông Nam Á. Cái “vỏ” bốn tốt và mười sáu chữ vàng liệu có cứu
được Việt Nam thoát khỏi cuộc xung đột mới trên đất liền hoặc ở tận mãi ngoài
các đảo xa?
“Ông
Liên Xô bà Trung Quốc…”
45
năm về trước, ngày 15/5/1975, tại một cuộc mit-tinh lớn ở Hà Nội, Bí thư thứ
nhất Lê Duẩn khẳng định, thắng lợi từ cuộc kháng chiến của Việt Nam “cũng là
thắng lợi của các lực lượng xã hội chủ nghĩa”. Mặc dầu tuyên bố thế, nhưng vốn
“đi guốc trong bụng” Trung Quốc và Liên Xô nên ông Lê Duẩn biết rất rõ,
30/4/1975 chính là ngày mà ý chí độc lập của người Việt đã cho “đo ván” những
kẻ muốn lợi dụng ý thức hệ để chia cắt đất nước, đẩy dân tộc Việt Nam vào cuộc
phân tranh dai dẳng.
Chỉ
cần “soi” các mục tiêu sâu xa của cả Liên Xô lẫn Trung Quốc suốt thời kỳ chiến
tranh, có thể thấy anh Cả lẫn anh Hai hẫng hụt như thế nào trước các hiệu ứng
ngày 30/4/1975. Bắc Kinh từ 1954 bằng mọi cách đã thao túng Hiệp nghị
Giơ-ne-vơ, với mục tiêu kéo dài, nếu có thể thì vĩnh viễn, chia cắt giải đất
hình chữ S, biến nó thành khu đệm để Trung Quốc làm quân bài ngã giá với Mỹ hay
cạnh tranh với Liên Xô. Mục tiêu xa hơn nữa là trong quá trình “chống lưng” cho
Việt Nam và các lực lượng cộng sản châu Á, Trung Quốc luôn luôn rắp tâm dọn
đường để đưa hàng triệu nông dân từ đại lục tràn ngập lãnh thổ Đông Nam Á.
Liên
Xô, khiêm tốn hơn, chẳng có tham vọng lãnh thổ hay di dân. Tuy nhiên, khi đấu
tranh võ trang ở miền Nam có dấu hiệu mạnh lên, lo sợ ảnh hưởng đến đường lối
“chung sống hoà bình”, Mátxcơva đã đe Hà Nội chớ giải phóng nửa nước bằng con
đường bạo lực! “Đốm lửa” ấy có thể thiêu rụi cả “cánh đồng” cách mạng. Đấy cũng
là căn nguyên của cuộc sát phạt “xét đi… xét lại” gây báo tang thương cho một
bộ phận tinh hoa trong nội bộ cộng sản Việt Nam. Nhưng với diễn tiến các sự
kiện, về sau Mátxcơva đã lần lượt cho hàng loạt đoàn tàu chở đầy ắp các thiết
bị và khí tài quân sự sang Hà Nội để viện trợ cho chiến trường.
Một
mặt, Liên Xô dùng Việt Nam kềm chân Mỹ, để bản thân được rảnh tay ở trời Âu,
đối phó với cả Tây lẫn Đông Âu. Mặt khác, muốn “làm le” với thế giới về sức
mạnh của ba dòng thác, dùng cuộc kháng chiến của Việt Nam để khuếch trương
thanh thế với tư cách là “thành trì của cách mạng thế giới”. Bên tung bên hứng!
Về phần mình, Việt Nam cũng tự nhận đất nước là nơi tập trung các mâu thuẫn
thời đại, cho nên “nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa/ vui gì hơn làm người lính
đi đầu/ trong đêm tối, tim ta thành ngọn lửa!” (Tố Hữu).
Tuy
nhiên, “soi” từ cấp độ đại chiến lược, các đế chế như Trung Hoa hay Xô Viết ít
khi chịu làm tù binh cho bất cứ một phương án duy nhất nào. Họ bao giờ cũng
chuẩn bị nhiều con bài trong tay cùng một lúc. Nếu cho rằng cả Bắc Kinh lẫn
Mátxcơva cũng đều lãnh đủ như các “bên thua cuộc” khác với hệ quả không đảo
ngược thì quả là không đúng. Ngay cả trước năm 1975, khi chủ trương ép Việt Nam
đánh Mỹ theo tiến độ riêng của mỗi nước thất bại, Trung Quốc và Liên Xô vẫn gây
cho Việt Nam một số khó khăn.
Lịch
sử ghi lại hai sự kiện ngoại giao chấn động: chuyến thăm Bắc Kinh (tháng
2/1972) và Mátxcơva (tháng 5/1972) của tổng thống Richard Nixon. Nixon đến
Trung Quốc, dù lúc bấy giờ giữa hai nước chưa có quan hệ ngoại giao, nhằm ép Hà
Nội ký một hiệp ước hòa bình có lợi cho Mỹ. Nixon hy vọng, sự xích lại gần nhau
giữa Mỹ với hai đồng minh hàng đầu của Hà Nội sẽ khiến cho Bắc Việt Nam nhượng
bộ trong các cuộc hoà đàm Paris. Nhất là về cuối, lãnh đạo Liên Xô bắn thông
điệp muốn Việt Nam kết thúc cuộc chiến tranh tỏ ra tốn kém đối với đất nước
này.
Tự
nhận là “NATO phương Đông”
Ngày
15/5/1975, trong khi Bí thư thứ nhất Lê Duẩn từ Hà Nội đang nhiệt liệt gửi đến
nhân dân Camphuchia anh em – bạn chiến đấu cùng chiến hào – “lòng biết ơn vô
hạn và tình đoàn kết sắt son”, thì một số đơn vị bộ đội Việt Nam, với súng AK
và ba lô con cóc, chỉ sau có một bữa trưa duy nhất liên hoan mừng thắng lợi
(đúng trưa 15/5), đã lại lên đường ra tiền tuyến, giáp chiến với Khmer Đỏ đang
say máu “cáp Duồn” (chặt đầu người Việt) ngay tại các tỉnh trên biên giới Tây
Nam.
Nhưng
cũng gần 4 năm sau thời điểm ấy, chiều 11/4/1979, đại sứ Trung Quốc bên cạnh
“Khmer Dân chủ” quần áo nhếch nhác bẩn thỉu, nước mắt đầm đìa, đã cùng với bảy
đồng nghiệp, nuốt hận đào tẩu qua đất Thái Lan. Lần đầu tiên, đại diện của một
vương triều trung tâm (Trung Quốc) buộc phải rút khỏi vùng đất chư hầu
(Campuchia). Bỉnh bút Naya Chanda trong tác phẩm “Vietnam’s Invasion of
Cambodia, Revisited” đã mô tả khoảnh khắc 41 năm về trước, khi các cố vấn Trung
Quốc buộc phải lang thang trong rừng già Campuchia suốt 61 ngày, ngủ trong các
lều lợp cỏ tranh, ăn đồ hộp trên đường tháo chạy.
Tuy
nhiên, mẻ lưới lớn trước đó Trung Quốc đã “cất” được vào tháng 10/1971 là thay
thế Trung Hoa Dân quốc nắm giữ chiếc ghế hội viên thường trực tại HĐBA/LHQ.
Trung Quốc trở thành một trong những trung tâm quyền lực có tiếng nói và ảnh
hưởng trên vũ đài thế giới. Bắc Kinh còn tự xưng là “NATO phương Đông”, khi
Đặng Tiểu Bình sang tận Mỹ để tìm kiếm nguồn đầu tư cho nền kinh tế đang yếu
kém của mình. Sau thời điểm đó, Trung Quốc trắng trợn cưỡng chiếm biển đảo của
Việt Nam, mở các gọng kìm trên mặt trận Tây Nam, biên giới phía Bắc và làm chảy
máu Việt Nam suốt hơn 10 năm ở Campuchia…
Nếu
giải ảo sâu hơn các động lực chiến lược, trước khi cuộc chiến kết thúc, Trung
Quốc đã chuyển chính sách trên đại cục cũng như trong quan hệ với Việt Nam.
Tiên liệu được kết quả của chiến tranh, Trung Quốc nhanh chóng triển khai ngay
những quân bài mới. Trước lúc Dương Văn Minh gặp đại diện “bên thắng cuộc”,
Trung Quốc đã cho người bắt liên lạc, động viên “Big Minh” cầm cự, hứa sẽ đổ
quân tiếp viện, giúp Sài Gòn dựng chính quyền mới ở miền Tây Nam bộ.
Sự
thật hắc ám nói trên không chỉ được biết đến qua tiết lộ của Dương Văn Minh, mà
còn qua nhiều phản ứng cấp thời, cả công khai lẫn bí mật, của ban lãnh đạo Ba
Đình. Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch từng nhận xét, trong quá trình điều chính
sách, Trung Quốc đổi đồng minh như thay đồ lót. Một trong những thay đổi lớn
hồi bấy giờ chính là “cái bẫy” mang tên Khmer Đỏ mà Trung Quốc đã dựng ra trước
đấy để hiện thực hoá mưu đồ, không chia cắt được thì tiếp tục làm cho Việt Nam
“chảy máu”.
Vậy
là thời kỳ khoác áo ý thức hệ như những anh em đồng chí giữa Hà Nội và Phnom
Penh dưới sự bảo trợ của Bắc Kinh chấm dứt. Chiến lược lợi dụng hệ tư tưởng lúc
bấy giờ không còn tác dụng. Cùng khi ấy, chính sách dùng Việt Nam tiêu hao “đế
quốc Mỹ”, để Liên Xô tạo thế cân bằng vũ khí chiến lược trên toàn cầu cũng
“cuốn theo chiều gió”. Nghiêm trọng hơn, giai đoạn liền kề, Liên Xô ngày càng
mắc phải mưu sâu kế hiểm, rơi vào vòng xoáy của chiến tranh lạnh và bị kiệt sức
trong cuộc chiến tranh giữa các vì sao.
Tuy
nhiên, do bất an trước các mối hiểm hoạ thường trực của Trung Quốc, chỉ sau cột
mốc 30/4/1975 ba năm, vào ngày 3/11/1978, Hà Nội đã ký với Mátxcơva “Hiệp
ước hữu nghị và hợp tác”. Hiệp ước là một văn kiện “có ý nghĩa
chính trị xuất sắc” (lời Tổng Bí thư Brejnev). Nhưng chính văn kiện
xuất sắc ấy đã cung cấp như một cái cớ để Trung Quốc “dạy cho Việt Nam bài
học”. Điều này cho thấy “lá nho” ý thức hệ không chỉ bị xung đột Xô – Trung
chôn vùi dưới lòng sông Ussuri năm 1969, mà tình đoàn kết Việt Nam – Campuchia,
Việt Nam – Trung Quốc cũng bị tan thành mây khói trong các trận đánh đẫm máu
trên chiến trường biên giới Tây Nam (1979) và chiến tranh biên giới phía Bắc
(từ 1979 đến 1989).
Liên
Xô – Bên thua cuộc kép
Trên
thực tế, Liên Xô đã phải gánh chịu một tình huống “thua cuộc kép”. Chiến tranh
kết thúc đã tước mất “cái bẫy để kìm chân Mỹ”, đồng thời Mátxcơva không đủ lực
để bảo vệ Hà Nội khỏi sự trừng phạt của Bắc Kinh. Trong khi ấy, khủng hoảng
về kinh tế – xã hội trên đất nước Xô viết ngày càng bộc lộ rõ. Việt
Nam và Liên Xô không thể tiếp tục thực thi bản Hiệp ước như cũ. Trên
một số lĩnh vực, hợp tác song phương bắt đầu có nhiều dấu hiệu suy
giảm. Mátxcơva cắt dần viện trợ cho Hà Nội.
Thậm
chí, đế chế Xô Viết lại dấn bước trên “con đường đau khổ” mới. Liên Xô tiếp
tục bị “toang” ở Đông Âu. Để tranh thủ Trung Quốc, Mátxcơva đành phải gây
sức ép buộc Hà Nội sớm đưa ra một thời gian biểu rút quân triệt để
và dứt khoát khỏi Campuchia. Tình trạng “thua cuộc kép” này của CCCP và
sự tụt giảm trong các mối quan hệ Việt – Xô kéo dài cho đến khi Liên
Xô và cả hệ thống xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ hoàn toàn vào năm 1991.
Và cái kết cục bi thảm của “tấn trò đời” ý thức hệ lần này cũng chính là sự
tiếp nối các tình tiết “sông Ussuri 1969” và “Mekong 1979” mà thôi.
Như
vậy, ý thức hệ thực ra đã chết trong các cuộc đánh nhau giữa Liên Xô với Trung
Quốc, Việt Nam với Campuchia, Trung Quốc với Việt Nam. Nhưng chủ nghĩa dân tộc
– câu chuyện ngàn năm ấy – bao giờ cũng mới và có sức sống mãnh liệt. Vấn đề
được thua trong mọi cuộc xung đột chỉ mang ý nghĩa tương đối. “Trong mọi cuộc
chiến tranh bất kể bên nào thắng thì nhân dân đều bại”. Nguyễn Duy đã đúng! Chỉ
có người Việt, từ cả hai chiến tuyến, chịu mất mát và khổ đau. Còn các ông lớn
– Mỹ, Liên Xô hay Trung Quốc – họ đều tính lỗ lãi theo hệ giá trị riêng của mỗi
bên liên quan đến cuộc chiến. Các cuộc chiến tranh Đông Dương không phải là
ngoại lệ.
Điều
lạ lẫm là ngay cả khi Trung Quốc và Liên Xô đã sớm gạt bỏ vai trò bung xung của
hệ tư tưởng để đi vào “bốn hiện đại hoá” (1976) và “перестройка” (cải tổ,
1986), thì lãnh đạo Việt Nam, tuy đã giương ngọn cờ “đổi mới” (1986) nhưng vẫn
kiên định chủ nghĩa quốc tế vô sản, vẫn gắn “độc lập dân tộc” với “chủ nghĩa xã
hội”. Bắc Kinh hẳn nhiên đã lợi dụng và gây sức ép tối đa qua các chủ trương
nửa vời này (appeasement), buộc Hà Nội đi vào hội nghị Thành Đô (9/1990), để
lại những hệ luỵ về sự can dự của Trung Quốc đối với hậu trường chính trị Việt Nam
cho mãi tới tận hôm nay.
Theo
“Địa-chính trị trong chiến tranh Việt Nam” của James Burnham, chuyên gia phân
tích từ Cơ quan Tình báo Chiến lược (OSS), tiền thân của Cục Tình báo Mỹ CIA,
lịch sử dường như lặp lại một vòng tròn định mệnh. Trong một báo cáo đề ngày
20/11/1964, Burnham nhận xét: “Cuộc chiến tại Việt Nam không phải là vấn đề địa
phương, vấn đề cục bộ. Đó là một chiến trường quan trọng trong cuộc tranh giành
châu Á, Tây Thái Bình Dương và Biển Đông”.
Hơn
nửa thế kỷ, Biển Đông giờ đây lại dậy sóng dữ. Nhưng lần này, “các vai diễn”
thay đổi và lời tiên đoán năm xưa của Kissinger (Việt Nam sẽ phải nhờ Mỹ để xử
lý mối bang giao với Trung Quốc) dường như được chứng nghiệm. Covid-19 đảo lộn
nhiều thứ, nhưng có một thứ bất biến. Đó là mâu thuẫn Trung – Mỹ sau đại dịch
sẽ không thuyên giảm, thậm chí nhiều chuyên gia đánh giá một cuộc chiến tranh
thế giới mới, mang tính tổng lực đã/đang diễn ra trên thực tế. Tình trạng
Washington và Bắc Kinh nặng lời công kích và tiến hành trả đũa lẫn nhau trên
mọi phương diện đang truyền đi những tín hiệu báo động đến hầu hết các chuyên
gia về an ninh quốc tế.
Nói
bang giao Việt – Mỹ quan trọng, nhưng nó luôn quan trọng vì nhân tố thứ ba là
nhìn nhận từ cái lăng kính địa-chính trị nghiệt ngã nói trên. Hiện nay, cuộc cờ
khu vực/thế giới ngả theo hướng: Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nga và châu Âu đều đang
trải qua những biến động dữ dội, khôn lường qua đại dịch Vũ Hán. Mỹ và Trung
Quốc đều đang cố gắng khai thác tối đa thất bại của phía bên kia để phục vụ cho
lợi ích đối nội, đối ngoại. Các nước đều đang khai triển những bước khác nhau
nhưng cùng chuẩn bị cho một cuộc thư hùng mới trong tương lai.
Mỹ
Trung giành nhau “chiếu trên” để tái định hình trật tự thế giới, Liên bang Nga
(tuy GDP chưa bằng Italy, chỉ ngang một tỉnh lớn của Trung Quốc) vẫn mơ “giấc
mơ” của Liên Xô cũ về tầm ảnh hưởng ở Á – Âu. Nói lại câu chuyện “ông Liên Xô
bà Trung Quốc/ ông đi guốc bà đi giầy…” trên bối cảnh này là để làm nổi bật cái
minh triết của người dân Việt, cái hằng số bất di bất dịch trong bang giao quốc
tế. Mọi quốc gia trên đời, lúc nào và bao giờ cũng hành động xuất phát từ lợi
ích quốc gia – dân tộc. Mọi mỹ từ vàng son hay có cánh đều chỉ để che đậy cái
thực tế nghiệt ngã bên trong.
“Vỏ”
ý thức hệ, “ruột” đại hán.
Thật
ra từ năm 1968, nhà tình báo vĩ đại Phạm Xuân Ấn, trong một báo cáo mật
gửi về Trung tâm, đã thể hiện tầm nhìn sáng suốt của mình khi ông phân tích: “Cuộc
chiến tranh chống Mỹ là trước mắt và có thời gian, nhưng kẻ thù nguy hiểm và
lâu dài nhất sau này của Việt Nam chính là Trung Quốc, chứ không phải là Mỹ”.
Xin được nhắc lại là từ 1968, con người có tên như cuộc đời ấy đã khẳng định
như thế. Không rõ, văn phòng giúp việc các Tổng bí thư ĐCSVN sau này, có sao
lưu bức điện với nội dung chiến lược quan trọng ấy cho các thế hệ lãnh đạo sau
1990?
Nhiều
nhà nghiên cứu khác trong và ngoài nước cũng đều nhấn mạnh đến cái gọng kìm
địa-chính trị của Trung Quốc đối với Việt Nam là vấn nạn thiên thu, dù dưới màu
sắc ý thức hệ như thời chiến tranh hay là tham vọng Đại Hán như ngày nay. Và vị
thế địa chính-trị ấy cũng lại là con dao hai lưỡi, nó có thể giúp đất nước vươn
lên, nhưng cũng có thể đẩy lùi một Việt Nam loay hoay giữa ngã ba đường vào
thời kỳ Bắc thuộc mới và kéo dài như sinh thời ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã
cảnh báo.
Trong
công hàm gần đây nhất ngày 17/4/2020 gửi Tổng thư ký LHQ, Trung Quốc đã “cương
quyết yêu cầu Việt Nam rút tất cả người và vật dụng trên các đảo và đá ở Trường
Sa”. Rõ ràng, giải pháp đối với Việt Nam lúc này là phải sớm hội nhập vào không
gian Ấn Thái Dương tự do và rộng mở (FOIP) để huy động bằng được sức mạnh toàn
diện của dân tộc và của quốc tế. Khó có thể tin rằng sự giàn xếp sau hậu trường
giữa hai đảng cộng sản về “kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội” hay “vận mệnh
tương thông, văn hoá tương đồng” có thể làm thay đổi chính sách “sát ván” của
Bắc Kinh đối với Hà Nội.
Càng
để lâu tình hình bất định như hiện nay, Việt Nam càng tiếp tục bị Trung Quốc
lợi dụng, thế giới hiểu nhầm. Trung Quốc đang gấp rút biến các đảo cưỡng chiếm
thành chuỗi căn cứ giúp họ có đủ sức mạnh để cấm đoán tàu bè qua lại. Bắc Kinh
hoàn toàn phớt lờ các phản kháng của Hà Nội, khiến cho sự chia rẽ trong nội bộ
Việt Nam ngày càng sâu sắc.
Thế
giới là bàn cờ vĩ đại mà các cường quốc thường là những tay “chơi cờ độn nước”.
Việt Nam muốn hay không cũng đang trong bàn cờ chung ấy. Vấn đề là phải thức
thời, biết chọn chơi loại cờ nào? “Còn như vào trước ra sau/ Ai cho kén chọn
vàng thau tại mình” (Kiều của Nguyễn Du). Cờ Tàu, tốt muôn đời vẫn là con tốt, kể
cả khi nó chiếu được tướng. Cờ Tây, chơi đến tận hàng cuối, tốt có thể về hậu.
Việt Nam có cơ để trở thành một cường quốc tầm trung. Nhưng cờ Tây thì phải đi
với nhau đến tận cùng mới có kết quả. Phải biết gắn mình vào thế trận chung với
các quân cờ khác, dù đó là vua hay hậu, tượng, xe, để đi đến thắng lợi.
Có
thể chia sẻ với TS. Đỗ Kim Thêm từ “Diễn đàn Thương mại và Phát triển LHQ”
(UNCTAD): Tỉnh thức về thân phận của dân tộc là vấn đề kiến thức, xác định ý
muốn để thay đổi là vấn đề của quyết tâm chính trị, vấn đề của sự chọn lựa!
Chúng ta cùng giúp nhau tỉnh thức trong tình tự dân tộc. Đất nước đang đứng
trước nguy cơ! Hy vọng, hồn thiêng sông núi vẫn phù hộ cho con dân nước Việt.
Đất nước mỗi khi lâm nguy chắc chắn sẽ xuất hiện một Trần Nhân Tông hay một Lê
Thánh Tông, kể cả nếu gốc gác là nông dân thì chí ít cũng phải có một khát vọng
lớn như anh hùng áo vải Nguyễn Huệ.
*
Sự
hung hăng của Trung Quốc trong cuộc trường chinh “Nam tiến” ngày càng đặt Việt
Nam trước tình thế không thể kéo dài mãi chính sách “lửng lơ con cá vàng”. Việt
Nam không thể chần chừ giữa ngã ba đường. Người dân sau đại dịch đang kỳ vọng
lãnh đạo sẽ chớp được thời cơ có một không hai hậu Covid-19 để hành động. Phải
khắc phục ngay tình trạng không bình thường trong nội trị và ngoại giao. Bời
những ai quan tâm đến thời cuộc đều lấy làm tiếc, vì niềm tin của quần chúng
vừa mới le lói sau đại dịch nay lại đang mất dần qua phiên giám đốc thẩm về tử
tù Hồ Duy Hải, hay xử sơ thẩm vụ người mẹ đơn thân đánh BOT Huệ Như.
Liệu
cái khung khổ “cùng chung vận mệnh” có cứu Việt Nam thoát khỏi một cuộc xung
đột mới do Trung Quốc gây ra trên đất liền hoặc ở tận mãi ngoài các đảo xa?
Liệu lời kêu gọi phải bám chặt lấy thị trường Trung Quốc để phát triển có khả
thi, khi cả về trình độ marketing lẫn tiền bạc doanh nhân Việt vẫn còn dưới cơ
các nhà buôn Tàu. Nhưng xử lý các vấn đề làm ăn với Trung Quốc như thế nào khi
như chính các chuyên gia phải thừa nhận, chúng ta chưa có chủ nghĩa dân tộc về
kinh tế? Các chuyên gia cảnh báo rằng, bối cảnh cả chính trị lẫn kinh tế hiện
nay khác xa với năm 2000, nhất là giờ đây Trung Quốc đã chế ngự được Lào và
Campuchia, khóa chặt lối ra bán đảo Đông Dương của Việt Nam./.
Để
có thêm thông tin mời xem:
Quyết
tâm xây dựng Việt Nam thành một nước văn minh, giàu mạnh, vươn lên đỉnh cao của
thời đại: Diễn văn đọc tại cuộc mit-tinh lớn ở Hà Nội mừng chiến thắng (Ngày 15
tháng 5 năm 1975).
https://thediplomat.com/2018/12/vietnams-invasion-of-cambodia-revisited/ Vietnam’s Invasion of Cambodia, Revisited
Vài
nét về quan hệ Việt Nam – Liên Xô từ năm 1975 đến năm 1990
The
Geopolitics of the Vietnam War
Richard
Nixon, Henry Kissinger và Sự sụp đổ của Miền Nam
Hội
nghị Thành Đô
Việt
Nam và Trung Quốc không còn “thắm tình anh em” vì Biển Đông?
Chiến
Tranh Lạnh và Thân Phận Việt Nam
https://www.rfa.org/vietnamese/news/blog/what-can-vn-do-to-confront-china-in-scs-05042020112008.html
Khả
năng đối phó của Việt Nam trước dã tâm của Trung Quốc ở Biển Đông
Đâu
là nguyên nhân cuộc chiến Việt-Trung tháng Hai năm 1979?
Trung
Quốc trong trật tự thế giới
Nguyễn
Trần Bạt: Cần bám chặt lấy thị trường Trung Quốc một cách khôn ngoan để phát
triển kinh tế
Nguồn:
Tác giả gửi Viet-Studies ngày 15/5/2020
Nhận xét