6076. Chuyện vua Minh Mạng và Tự do Ngôn luận
CHUYỆN VUA MINH MẠNG VÀ TỰ DO NGÔN
LUẬN
Hoàng Hải Vân
(PNTB): Bài viết của nhà báo Hoàng
Hải Vân dưới đây nói về tư duy của Vua Minh Mạng, triều đại thứ hai của nhà
Nguyễn, cách nay đã 200 năm: “Mở rộng đường ngôn luận”, nghĩa là “Tự do ngôn
luận !” mà cho mãi đến nay ta mới ghi trong Hiến Pháp – tất nhiên mới là “ghi”,
còn thực thi thì phải là một quá trình dài dài…
Cái lạ ở đây là tư duy tiến bộ ấy lại ở giữa thời xã hội VN đang chìm đắm dưới
đêm đông Phong kiến cả ngàn năm và bị ảnh hưởng nặng nề ý thức hệ Nho giáo vốn
rất xung đột với tư tưởng dân chủ.
Tuy nhiên, tôi đồ rằng, có lẽ nhờ
Vua Gia Long đã có quan hệ với nước Pháp, một quốc gia tiến bộ Phương Tây, nên
ít nhiều đã sớm có ảnh hưởng tư tưởng dân chủ…).
-----------------------------------------------
Một trong những điểm lạ lùng độc đáo của vua Minh Mạng là chủ trương mà ngày
nay chúng ta ghi trong Hiến Pháp: Tự do ngôn luận. Quốc sử quán triều Nguyễn
khi biên soạn bộ Minh Mạng chính yếu đã dành hẳn một thiên, gọi là “Quảng ngôn
lộ”, nghĩa là mở rộng đường ngôn luận.
Dưới sự trị vì của vua Minh Mạng,
nước Việt ta không những là quốc gia có cương thổ rộng lớn nhất trong lịch sử
dân tộc, bao gồm đất liền và biển đảo, trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa, mà
còn là quốc gia cường thịnh nhất ở châu Á thời bấy giờ, vượt xa cả Nhật Bản.
Là một minh quân, có lẽ Minh Mạng
là vị vua để lại nhiều di sản nhất cho dân tộc về cương vực lãnh thổ, về kinh
tế và văn hóa, về quốc phòng, về ngoại giao và các chính sách an dân… Những di
sản ấy không chỉ được ghi trong sử sách, mà ngày nay chúng ta còn có thể nhìn
thấy trong thực tế, có thể “sờ mó” và thụ hưởng chúng. Các địa giới hành chính,
hệ thống phòng thủ biên giới, bờ biển và hải đảo qua các giai đoạn tuy có dịch
chuyển, tăng cường, gia cố, nhưng về căn bản đã được thiết lập dưới thời vua
Minh Mạng. Ngày ấy nước ta mạnh đến mức có người chặn xa giá dâng thỉnh nguyện
xin nhà vua đem quân lấy lại vùng Lưỡng Quảng, vốn thuộc đất Lĩnh Nam của ta từ
thời Hai Bà Trưng, về lại cho Việt Nam. Tất nhiên nhà vua không làm cái chuyện
tiêu tốn máu xương và thiếu khả thi đó nên bảo người ấy là “cuồng ngôn”, nhưng
ông thừa sức khiến cho Trung Quốc không dám động đến một sợi lông chân của
người Việt, không dám xâm phạm một ngọn cỏ của nước Việt. Đối với các nước lân
bang, ông thực hiện chính sách hòa ái, vỗ về che chở, chứ tuyệt đối không ức
hiếp. Ông còn phong quan tước cho các hậu duệ của hoàng tộc Chiêm Thành và trân
trọng tấm lòng của họ đối với cố quốc.
Một trong những điểm lạ lùng độc
đáo của vua Minh Mạng là chủ trương mà ngày nay chúng ta ghi trong Hiến Pháp:
tự do ngôn luận. Quốc sử quán triều Nguyễn khi biên soạn bộ Minh Mạng chính yếu
đã dành hẳn một thiên, gọi là “Quảng ngôn lộ”, nghĩa là mở rộng đường ngôn
luận. Nhiều bậc minh quân ngày xưa từng xuống chiếu cầu lời nói thẳng, nhưng
thường là hư văn, ít tính khả thi. Vua Minh Mạng thì khác, ông rất ghét hư văn,
ông hành xử một cách chân thành để đảm bảo thực chất.
Ngay sau khi lên ngôi, nhà vua hạ
tờ sắc cho 6 bộ phải nộp tất cả các tờ tấu từ các nơi gửi tới, dù có “hợp lẽ”
hay không, bởi vì trước đó các bản tấu dâng lên vua phải lập thành 2 bản, Bộ mở
ra xem trước 1 bản, nếu thấy không cần thiết thì giữ lại không dâng lên. Ông
làm vậy là để phòng ngừa các quan ở Bộ che lấp nhà vua, tự ý bác bỏ những lời
ngay thật. Vua dụ bảo quan Thượng thư Bộ Lại Nguyễn Hữu Thận: “Bề tôi thờ vua
có thể phạm đến nhà vua chứ không được ẩn giấu điều phải, điều trái, điều nên
làm hay không nên làm, mọi điều nhất thiết phải nói thực”.
Đại thi hào Nguyễn Du lúc đó giữ
chức Hữu Tham tri Bộ Lễ. Là một bậc tài danh nhưng Hữu tham tri Nguyễn Du lại
nhút nhát ít khi dám tâu bày sự thật, khiến cho nhà vua phải nhắc nhở: “Ngươi
cùng quan Hữu tham tri Bộ Lại đã được trẫm tri ngộ, đều nên hết sức mà tỏ lòng
thành thật, nếu đã biết thì không điều gì là không được nói, dâng điều phải bỏ
điều trái để làm tròn chức vụ, nếu chỉ nín lặng không nói thì còn có ích gì”.
Liền theo đó, nhà vua đã ban chiếu tìm người nói thẳng. “Người muốn thấy hình
dáng của mình phải nhờ đến gương tỏ, vua muốn biết lỗi lầm của mình phải đợi kẻ
trực thần”, tờ chiếu viết, “lời nói các ngươi như vàng ngọc, được nói thẳng
những điều lầm lẫn của trẫm mà không phải kiêng kỵ”. Ông không những kêu gọi
các bề tôi, những “kẻ sĩ dám trái với nhà vua” mà còn “tìm đường ngôn luận cho
đến cả người cắt cỏ, kiếm củi” nói thẳng sự thật về chính sự, về nỗi khổ của
dân chúng và về sự sai trái của bản thân hoàng đế.
Do vậy mà vào thời của ông, có rất
nhiều bản tấu thẳng thắn của các quan và thường dân, thậm chí có người còn đón
xa giá để tâu trình trực tiếp. Mọi lời tấu đều được ghi nhận, điều gì hợp lý
được đem thi hành ngay, những lời nói sai thì được nhắc nhở chứ không bắt tội
(tất nhiên là trừ những lời quỉ quái hoặc vu cáo sai sự thật xuất phát từ ác
tâm, gây tổn hại cho người vô tội).
Năm Minh Mạng thứ hai, vua ngự đến
một trường thi, có người ở trấn Kinh Bắc dâng “15 điều quốc sách”, phần lớn là
những điều vu khoát (những lời viễn vông không thực tế), người này bị quan sở
tại bắt giữ, nhưng nhà vua nói: “Trẫm mở đường cho dân chúng được ngôn luận,
đâu có vì câu nói mà bắt tội người ta”, rồi tha cho người ấy.
Năm Minh Mạng thứ tám, có sự kiện
Thái Lan đem quân đánh nước Lào, triều thần nghị bàn không nên can thiệp, khi
nào Thái Lan đem quân đánh vào nước ta thì mới tấn công. Quan Tham tri Bộ Lại
Hoàng Kim Hoán dâng sớ hiến kế không thể bỏ rơi nước Lào, mà phải đem quân đến
biên giới để nước Lào biết là có quân viện trợ mà hăng hái phục thù, sau đó ta
đem quân tiến vào cùng với quân Lào hợp lực đại trương thanh thế tấn công Thái
Lan, sau đó trả lại quốc hiệu và kén người bề tôi để bảo hộ nước Lào, nước Thái
sẽ thế suy sức yếu không dám chống lại nước ta nữa. Đình thần nghị bàn cho rằng
“Kim Hoán bàn việc binh trên tờ giấy, về lý lẽ, về tình thế, về địa hình nhiều
điểm không thi hành được”. Nhà vua bảo đình thần nói đúng, nhưng ông cho rằng
sự tâu trình của Hoàng Kim Hoán cũng là hết lòng lo toan việc nước, chẳng qua đó
là “ý kiến của một người không tự biết là không hợp lẽ” mà thôi. Dù tờ sớ bị
bác bỏ nhưng nhà vua vẫn lưu ý đình thần không nên vì vậy mà lui bước trong
việc nói thẳng.
Vào năm Minh Mạng thứ mười bốn,
quan Hiệp biện đại học sĩ Nguyễn Khoa Minh tâu rằng, trước đây có một số quân
dân Nam bộ do bị ức hiếp nên phải theo giặc (chỉ cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi),
nay giặc yên đã ra thú tội để được trở về quê quán, thế mà quan địa phương vẫn
nã bắt tra tấn, việc đó gây bất an cho dân. Nhà vua bảo ông đã giáng tờ dụ
không trị tội những người bị bắt hiếp phải theo giặc mà nay còn bắt bớ tra tấn
và chưa ai nói với ông việc đó cả, “nay Nguyễn Khoa Minh đem việc ấy tâu bày
thật đáng ban khen”.
Minh Mạng là ông vua quan tâm đặc
biệt đến nỗi khổ của dân chúng. Suốt 21 năm làm vua, năm nào ông cũng giảm thuế
cho dân, không năm nào tăng thuế, khi giá lúa lên dân gặp khó khăn thì xuất lúa
kho bán rẻ cho dân để bình ổn giá, khi dân gặp hoạn nạn thì lập tức xuất kho
cứu tế. Những gì gây phiền hà cho dân, dù là chuyện nhỏ nhất ông cũng kiên
quyết bãi bỏ. Quan Nội vụ lang trung Lê Vạn Công thấy dân Quảng Bình phải lấy
đá hoa cương cho Nhà nước rất khổ cực, nhân đó tâu: “Việc lấy đá ở tỉnh Quảng
Bình không tiện cho dân chúng”. Vua cho kiểm tra thấy đúng, nên lập tức ra lệnh
bãi bỏ, phạt quan địa phương và thưởng cho Lê Vạn Công. Nhân đó, giáng tờ dụ
cho các quan: “Lê Vạn Công theo chỉ dụ đi bán thóc cho dân, đi qua tỉnh Quảng
Bình mà để ý đến điều đau khổ của dân chúng, về kinh bảo trẫm, trẫm rất hài
lòng, cho nên đặc cách hậu thưởng để nêu cho những người nói thẳng”.
Dẫn chứng cho việc triều đình cần
những lời nói thẳng đến mức nào, nhà vua bảo trước đây ông đã cho trải chiếu
trên điện để người muốn tâu việc gì thì quỳ xuống đó cho khỏi lạnh lẽo, nhưng
ông không hiểu vì lẽ gì mà suốt hai năm không có ai đến quỳ vào chỗ ấy, cho đến
khi gặp mưa to gió lớn ông sai cuộn chiếu đi thì thấy ở dưới còn có lớp chiếu
bằng mây, ông mới biết quỳ vào đó đau đầu gối nên không có ai quỳ. Nhân đó ông
kết luận: “Đến một việc nhỏ ngay trước mắt mà sự thông minh của trẫm còn không
nghĩ tới, huống gì là việc khác”.
Minh Mạng không thích người ta
tâng bốc. Ông là nhà thơ lớn, đã để hàng ngàn bài thơ hay, trong đó có nhiều
bài là kiệt tác thi ca, nhưng quan niệm thi ca của ông rất khác với các văn
nhân đương thời và đến ngày nay vẫn còn mới mẻ. Có lần nhân lúc tan chầu sớm,
vua làm bài thơ “Bồn mai thịnh khai” (Chậu mai nở nhiều hoa), rồi gọi các đại
thần là Phan Huy Thực, Lê Văn Đức, Hà Quyền đến bình chú. Các ông này tâu :
“Học của bậc thánh uyên thâm, lũ hạ thần nông cạn này không thể mong bằng được
một phần trong muôn phần”. Vua cười, nhân đó bảo: “Lúc nhàn rỗi vui cười nếu
thấy sự việc gì cũng nên nói thẳng, trẫm đâu có đem chữ nghĩa cùng với lũ ngươi
tranh hơn kém”. Thời đó, ở Trung Quốc có vô số các vụ án văn chương, nhiều văn
nhân thi sĩ vì chữ nghĩa mà bị triều đình nhà Thanh bức hại, trong khi ở nước
ta thời vua Minh Mạng không hề có văn nhân nào vì chữ nghĩa mà bị triều đình
gây khó dễ. Nhà vua bảo: “Trước ông Dạng Đế nhà Tùy, nhân câu thơ ‘Không hương
lạc yến nê’ (Chỗ bờ đập vắng người con chim yến rơi xuống bùn) của Tiết Đạo
Thành mà đem lòng nghi kỵ, trẫm rất khinh bỉ”.
Theo HOÀNG HẢI VÂN / MỘT THẾ GIỚI
(Nguồn:
Copy từ blog Xứ Đoài Mây Trắng Bay)
Nhận xét