6028. BÁC BỎ LUẬN ĐIỆU TRUNG QUỐC KHUYÊN VIỆT NAM ‘LÃNG TỬ HỒI ĐẦU’
BÁC BỎ LUẬN ĐIỆU TRUNG QUỐC KHUYÊN VIỆT NAM ‘LÃNG TỬ HỒI ĐẦU’
Tác
giả: Hồ Anh
Hải (Nghiên cứu Quốc tế)
Vào ngày
02/05/2014, Trung Quốc (TQ) đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng đặc quyền
kinh tế 200 hải lý của Việt Nam và tiến hành khoan thăm dò dầu khí một cách phi
pháp. Chính phủ Việt Nam đã mạnh mẽ tố cáo hành động này của Trung Quốc. Hành
động ngang ngược của Trung Quốc cũng đã gây ra sự phản đối từ cộng đồng quốc
tế. Đến ngày 16/07, Trung Quốc rút giàn khoan 981 ra khỏi vùng đặc quyền kinh
tế của nước ta, sớm 1 tháng so với kế hoạch ban đầu. Sự kiện này để lại cho
chúng ta những bài học hữu ích đến nay vẫn cần ôn lại.
Mặc dù
trắng trợn vi phạm chủ quyền của Việt Nam nhưng Trung Quốc luôn tuyên truyền
rằng Việt Nam mới là kẻ quấy rối họ thực thi chủ quyền. Ngày 19/06/2014, Nhân dân Nhật báo, cơ quan ngôn luận của Nhà nước
Trung Quốc đăng bài “Trung
Quốc khuyên Việt Nam: Kẻ hư hỏng nên tỉnh ngộ trở về” (TQ phụng khuyên Việt Nam “Lãng
tử hồi đầu”).[1] Tác giả bài báo lời lẽ xách mé này
là bà Tô Hiểu Huy (苏晓晖 Su Xiao Hui), Phó Chủ nhiệm Ban Nghiên
cứu Chiến lược quốc tế thuộc Viện Nghiên cứu các vấn đề Quốc tế của Trung Quốc.
Xin đọc
một số câu trong bài báo này (chúng tôi in đậm những chỗ cần chú ý):
Trong
tình hình Việt Nam mạnh mẽ quấy nhiễu công việc bình thường của công ty TQ tại
quần đảo Tây Sa [Việt
Nam gọi là Hoàng Sa], gây
nên tình thế căng thẳng liên tục nâng cấp, Ủy viên Quốc vụ TQ Dương Khiết Trì
đã đến Việt Nam hội đàm với Trưởng đoàn Ủy ban Chỉ đạo Hợp tác song phương
TQ-VN. Trong hội đàm, hai bên đều tỏ ý coi trọng mối quan hệ song phương và ý
muốn quản lý kiểm soát tình hình trên biển; tình thế căng thẳng suýt bùng nổ đã
dần dần được hòa hoãn…
Chuyến
đi của Dương Khiết Trì cho thấy “TQ
một lần nữa tạo cơ hội cho Việt Nam ghìm ngựa trước vực thẳm. Trước đó TQ đã nhiều lần nghiêm
chỉnh tuyên bố quần đảo Tây Sa là lãnh thổ vốn có của TQ, không tồn tại bất cứ
tranh chấp nào, và yêu cầu Việt Nam ngừng quấy rối tác nghiệp [thăm dò dầu khí, xây đắp đảo…] của phía TQ… Trong hội đàm, Dương Khiết
Trì một lần nữa nói rõ giới hạn cuối cùng đối với Việt Nam, TQ mong muốn Việt
Nam từ bỏ dã tâm không thiết thực, ngừng tạo ra các tranh chấp mới, quản lý
được bất đồng, tránh gây thiệt hại lớn hơn cho mối quan hệ song phương. TQ bỏ ra rất nhiều công sức khuyên Việt
Nam “Lãng tử Hồi đầu”, nhưng Việt Nam có thể đi cùng TQ hay không thì vẫn là
vấn đề chưa biết…”
Câu cuối
cùng viết mập mờ, không rõ đây là lời Dương Khiết Trì hay lời Tô Hiểu Huy;
nhưng đã đăng trên “Nhân dân Nhật báo” thì chắc chắn là quan điểm của Nhà nước
TQ.
Chữ Hán
“Lãng tử” là đứa con/em hư hỏng, bỏ nhà đi lêu lổng. “Lãng tử hồi đầu” là đứa
con/em hư hỏng [đã đến lúc] ăn năn hối lỗi, cải tà quy chính, trở về với gia
đình.
Trước
thái độ nước lớn kẻ cả nói trên của TQ, chúng ta cần trả lời: Việt Nam đấu tranh bảo vệ sự toàn vẹn lãnh
thổ nước mình là hoàn toàn chính đáng, không có gì phải ăn năn hối cải và chẳng
có cái “gia đình” nào ở TQ để chúng ta “trở về” cả.
Tại TQ
lâu nay vẫn lưu hành một quan điểm lịch sử cho rằng Việt Nam vốn là đất của TQ,
về sau lợi dụng cơ hội nội bộ TQ loạn lạc mà tách ra thành một quốc gia riêng;
dân tộc Việt Nam vốn là một trong các tộc người bị tộc Hoa Hạ (từ triều Hán trở
đi gọi là tộc Hán) ở Trung nguyên gọi vơ đũa cả nắm là “Bách Việt”, như Mân
Việt, Ngô Việt, Lạc Việt…; trong khi các tộc này đều phục tùng sự “chinh phục”
[thực ra là xâm lược và cai trị, cướp bóc, đồng hóa] của tộc Hoa Hạ thì tộc
Việt Nam lại cứng đầu cứng cổ tách ra khỏi “gia đình Bách Việt”, độc lập với
TQ; nay đã đến lúc Việt Nam – đứa con hư hỏng bỏ nhà ra đi này nên sớm hối cải,
trở về với “gia đình” [nói cách khác, trở thành nước chư hầu của TQ].
Không ít
dân mạng TQ tuyên truyền quan điểm nói người Việt Nam vốn là người TQ, sống
trên đất TQ, có vương triều đầu tiên là triều Triệu Đà nước Nam Việt, hai quận
Giao Chỉ và Cửu Chân của nước này chính là miền bắc Việt Nam; về sau Việt Nam
giành độc lập, tách ra thành một quốc gia nhưng vẫn triều cống TQ, nhận làm một
“phiên quốc” [nước phên giậu] của TQ, cho tới khi bị Pháp chiếm (1884). Sử
chính thống Việt Nam không coi nhà Triệu là vương triều của mình, chứng tỏ họ
không còn coi TQ là “tôn chủ quốc” [chính quốc, nước mẹ] của mình, như thế là
vong ân phụ nghĩa….
Các quan
điểm kể trên hoàn toàn trái với sự thật lịch sử, cần dứt khoát bác bỏ.
Dưới đây xin trình bày quan điểm của chúng tôi về các vấn đề đó.
1-
Lãnh thổ Việt Nam không phải là đất của Trung Quốc.
Sau khi
đuổi được giặc Minh ra khỏi bờ cõi nước nhà, năm 1428 Lê Lợi ra “Bình Ngô Đại
cáo” tuyên bố: “Như nước Đại Việt ta thủa trước, Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia, Phong tục Bắc Nam cũng khác…”
Đúng là
“bờ cõi đã chia”: Mảnh đất chữ S này trước đời Tần là một vùng đất riêng biệt,
người phương bắc chưa hề đặt chân tới. Thiên nhiên rào chắn mảnh đất này cả bốn
phía: phía tây có dãy Trường Sơn ngăn cách; phía đông và nam được biển bọc kín,
phía bắc có dãy Thập vạn đại sơn hiểm trở. Việt Nam cách rất xa vùng Trung
nguyên TQ – nơi sinh ra tộc Hoa Hạ và từ đời Tần xuất hiện đế chế Trung Hoa
cùng chủ nghĩa Đại Hán. Chỉ sau khi bị nhà Tần chiếm (214 TCN), nước ta bắt đầu
thời kỳ Bắc thuộc và từ đó mới bắt đầu tiếp xúc với nền văn minh Trung Hoa. Đất
nước này dù bị TQ cai trị hơn 1000 năm và về sau bị Pháp cai trị 80 năm nhưng
vẫn là đất của dân tộc Việt Nam. Nếu nói lãnh thổ nào từng bị TQ chiếm đóng đều
là lãnh thổ TQ thì cả châu Âu và TQ đều là lãnh thổ của Mông Cổ chăng?
Quá
trình bành trướng của chủ nghĩa Đại Hán khởi đầu bằng việc Tần Thủy Hoàng
“chinh phục, thống nhất 6 nước”, thực chất là xâm chiếm lãnh thổ 6 nước Hàn,
Triệu, Ngụy, Sở, Yên, Tề trong các năm 230-221 TCN nhằm biến nước Tần thành một
đế quốc lớn mạnh. Quân Tần giết người như giết ngóe, dã man tới mức dù nước Hàn
đã đầu hàng nhưng chúng vẫn “Ngũ mã phanh thây” vua nước Hàn và xử chém hàng
trăm nghìn tù binh nước Triệu; dân thường bị giết nhiều vô kể. Thủ đoạn tàn ác
này khiến các nước xung quanh sợ hãi, nhanh chóng đầu hàng khi bị quân nhà Tần
xâm chiếm.
Năm 219
TCN, nhà Tần cho 50 vạn quân đánh xuống phía nam Trường Giang, quê hương của
các bộ lạc “Bách Việt”, trong đó có vùng Lĩnh Nam ở phía nam dãy Ngũ Lĩnh. Cuộc
chiến này ác liệt hơn cuộc chiến chiếm 6 nước trước đó, nhất là khi gặp sự
chống cự của người Lạc Việt ở Quảng Tây. Đến năm 214 TCN nhà Tần mới chiếm được
Lĩnh Nam sau khi mất hơn 10 vạn lính. Từ con số này có thể suy ra bao nhiêu vạn
dân Bách Việt từng chết dưới tay quân Tần. Một số bộ lạc Bách Việt phải di tản,
nhờ thế tồn tại và trở thành các dân tộc thiểu số ngày nay ở TQ; ví dụ người
Lạc Việt, nay là dân tộc Tráng. Các bộ tộc ở lại dần dần bị tiêu diệt hoặc đồng
hóa.
Hầu hết
các vương triều TQ đều ra sức tăng số dân nước mình bằng chủ trương giết dân ở
các vùng chiếm được – chủ yếu giết đàn ông và đưa nhiều người Hán đến định cư.
Mấy nghìn năm qua chúng liên tục xâm chiếm các vùng xung quanh và đồng hoá các
dân tộc thua trận, biến họ thành người Hán.[2] Kết quả là từ một nước Tần ở hai
tỉnh Thiểm Tây, Cam Túc hơn 2200 năm trước, hiện nay tộc Hán chiếm 92% trong số
hơn 1,3 tỉ người sống trên lục địa rộng 9,6 triệu km2 và còn muốn chiếm 90%
diện tích biển Đông. Ngày nay người TQ tự hào với công trạng ấy, cho dù tổ tiên
họ phải trả giá bằng hàng trăm triệu sinh mạng – điều này cho thấy tư tưởng
nước lớn “Đại nhất thống” đã ăn sâu vào đầu óc họ như thế nào.
2-
Người Việt Nam không phải là người Trung Quốc và không thuộc cộng đồng Bách
Việt
Xét
về mặt ngôn ngữ, tiêu chuẩn quan trọng nhất để phân
biệt các dân tộc, thời cổ, tổ tiên ta ở xa cách TQ cho
nên tiếng Việt Nam thuộc ngữ hệ Môn-Khmer, khác hẳn tiếng Hán và tiếng của các
tộc Bách Việt đều thuộc ngữ hệ Hán-Tạng.
Tiếng
Việt có những âm và thanh điệu không có trong tiếng Hán, như âm b, đ, v, g, nh, ng, ư,… , thanh điệu nặng và ngã.
Tiếng
Việt có số lượng âm tiết (syllable) nhiều gấp khoảng 15 lần (ngót 18 nghìn so
với hơn 1000 âm tiết);[3] nghĩa là có hơn chục nghìn âm tiết
mà tiếng Hán không có, người Hán không phát âm được. Vì thế chữ Hán không thể ghi được tiếng Việt
và tiếng Việt không thể nào là một phương ngữ của Hán ngữ. Mặc dù Việt ngữ dùng chữ Hán hai nghìn
năm nhưng người TQ không thể nghe hiểu bất kỳ bài văn thơ chữ Hán nào đọc bằng
tiếng Việt.
Hán ngữ
nghèo âm tiết nên chỉ có thể dùng chữ viết loại ghi ý (ví dụ chữ Hán), mà không
thể dùng chữ viết loại ghi âm như chữ Quốc ngữ Việt Nam.
Các tộc
Bách Việt như Mân Việt, Ngô Việt, Vu Việt, Lạc Việt… đều nói một trong các
thứ tiếng địa phương (phương ngữ) của Hán ngữ, thuộc ngữ hệ Hán-Tạng, và chữ
Hán ghi được các phương ngữ đó.
Tháng
11/2016, TQ công bố kết quả công trình “Nghiên cứu Phương quốc Lạc Việt” cấp
nhà nước, thực hiện trong 8 năm, do sử gia nổi tiếng TQ Lương Đình Vọng chủ
trì, xác định 8 dân tộc thuộc ngữ tộc Tráng-Đồng [Zhuangdong] là Tráng, Đồng,
Bố Y, Lê, Thái, Thủy, Mục Lão và Mao Nam có tổ tiên chung là người Lạc Việt;
trong đó tộc Tráng (Zhuangzu, chữ Tráng viết là Bouxcuengh) đông nhất, là hậu
duệ chính gốc của người Lạc Việt;[4] tiếng nói của họ, tức tiếng Lạc
Việt, thuộc ngữ hệ Hán-Tạng, khác với ngữ hệ của tiếng Việt Nam.
Thời xưa
một số người Tráng di cư đến Việt Nam làm thành dân tộc Tày-Nùng, hiện có 2,7
triệu người. Tiếng Tày-Nùng chính là tiếng Tráng, người Kinh nghe không hiểu.
Về ngữ
pháp, một khác biệt rất rõ là tiếng Việt đặt tính ngữ sau danh từ, ngược với
Hán ngữ, ta gọi là nói
ngược. Ví dụ
“Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc” trong Hán ngữ phải đặt tính ngữ “Nhân dân Trung
Quốc” lên trước “Ngân hàng”, thành “Zhongguo Renmin Yinhang”. Tráng ngữ cũng
viết “Cunghgoz Yinzminz Yinzhangz” theo thứ tự hệt như Hán ngữ. Trong tiếng
Việt, trạng ngữ chỉ thời gian có thể đặt trước hoặc sau chủ ngữ nhưng trong
tiếng Hán bao giờ cũng phải đặt trước chủ ngữ.
Lẽ
thường các dân tộc ở gần nhau đều có ngôn ngữ giống nhau. Sự khác biệt ngôn ngữ
quá lớn kể trên giữa tiếng Việt với tiếng của các tộc Bách Việt là bằng chứng
rõ nhất cho thấy dân tộc ta thời xưa không ở gần cộng đồng các tộc Bách Việt.
Dĩ
nhiên, sau hơn 10 thế kỷ là quận huyện của TQ và gần 2000 năm dùng chữ Hán,
ngôn ngữ Việt chịu ảnh hưởng lớn của Hán ngữ, khoảng 60% từ vựng tiếng Việt có
gốc chữ Hán.
Xét
về thể hình, người Việt Nam thuộc chủng người
thấp nhỏ, phụ nữ thanh mảnh, khác với người Bách Việt ở Quảng Đông, Quảng Tây,
Phúc Kiến, Chiết Giang…Một nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học nước ta cho
thấy hệ gene của người Việt Nam khác rất xa hệ gene của người Hán.[5]
Xét
về văn hóa, mặc dù chịu ảnh hưởng lớn của văn hóa
Hán sau hơn 1000 năm Bắc thuộc, nhưng nền văn hóa của dân tộc ta vẫn có nhiều
điểm khác. Nổi bật nhất là sự khác biệt về văn hóa chính trị: Người Việt Nam coi độc lập dân tộc là
lẽ sống cao nhất; dù bị nước ngoài chiếm đóng cai trị nhưng dân tộc ta xưa nay
chưa hề ngừng đấu tranh giành độc lập và chống đồng hóa. Độc lập dân tộc đã trở
thành đòi hỏi cao nhất, trên hết; đối với người Việt Nam “Không có gì quý hơn độc lập tự do” (lời Chủ tịch Hồ Chí Minh).
Trong
hơn 1000 năm Bắc thuộc, người Việt Nam đều coi các vương triều TQ cai trị mình
là chính quyền của kẻ địch, và không ngừng chống lại chúng. Quan điểm đó hoàn
toàn chính đáng. Triệu Đà người Hán quê Hà Bắc, xa Việt Nam hàng nghìn dặm vô
cớ đem quân đánh chiếm nước ta đang sống trong hòa bình, gây ra cảnh chết chóc
tàn phá đau thương, rõ ràng là kẻ xâm lược. Triều đình nước Nam Việt của Triệu
Đà đóng đô tại Phiên Ngung, toàn bộ quan lại, quân đội là người TQ, quan quân
cai trị Việt Nam cũng đều là người TQ; chúng chỉ lo áp bức bóc lột dân ta, sao
có thể coi nhà Triệu là vương triều của Việt Nam?
Với quan
điểm trên, tổ tiên ta, kể cả phụ nữ, đã không ngừng nổi dậy đánh đuổi giặc xâm
lược: Hai Bà Trưng (năm 40), Bà Triệu (năm 248), … Khúc Thừa Dụ (năm 905) và
kết thúc bằng chiến thắng giành độc lập của Ngô Quyền (năm 938).
Có sử
gia TQ nói Mã Viện diệt khởi nghĩa Hai Bà Trưng là “công việc nội bộ” TQ, tương
tự việc đàn áp mọi cuộc nổi dậy khác của nông dân TQ, không thể gọi là xâm
lược.[6] Thật vô lý. Dân tộc ta đang sống yên
lành bỗng dưng bị bọn người phương bắc vô cớ đánh chiếm nước ta rồi sáp nhập
làm quận huyện của chúng. Hai Bà Trưng đánh đuổi giặc chiếm đóng là chính
nghĩa. Mã Viện đánh nước ta, rõ ràng là xâm lược.
Đặc biệt
hơn cả là, dù bị chính quyền cai trị ép phải học và dùng chữ Hán suốt cả nghìn
năm nhưng do hiểu rõ nguy cơ để mất tiếng mẹ đẻ thì sẽ để mất nòi giống dân tộc
mình nên tổ tiên ta đã tìm mọi cách giữ nguyên vẹn tiếng mẹ đẻ cùng nền văn hóa
tiếng Việt, nhờ thế dân tộc ta không bị Hán hóa. Đây là thắng lợi vĩ đại nhất
trong lịch sử Việt Nam. Thời thuộc Pháp, dân ta cũng đấu tranh thắng lợi đòi thực
dân Pháp bãi bỏ chế độ buộc người Việt học tiếng Pháp từ bậc tiểu học; nhờ vậy
sau 80 năm Pháp thuộc dân ta vẫn không nói tiếng Pháp như các thuộc địa Pháp
khác.
Nhưng
các tộc Bách Việt như Ngô Việt, Mân Việt…đều khá dễ dàng chấp nhận sự chiếm
đóng, cai trị và đồng hóa của nhà Tần. Tộc Lạc Việt có đánh trả và lánh về vùng
núi Quảng Tây, nhờ vậy giữ được tiếng nói; nhưng sau đó họ không dám nổi dậy
đánh đuổi quân xâm lược. Ngày nay họ trở thành một dân tộc thiểu số ở TQ, sống
trong Khu Tự trị dân tộc Tráng, không được là một quốc gia độc lập như Việt
Nam.
Ngay cả
dân tộc Hán đông người nhất thế giới khi bị ngoại tộc (Mông tộc, Mãn tộc…) xâm
lược cũng chịu để cho kẻ địch cai trị hàng trăm năm mà không vùng lên đánh
đuổi; giới quan lại người Hán ngoan ngoãn làm tôi tớ cho vua chúa ngoại tộc,
giúp chúng áp bức bóc lột đồng bào mình, ép họ phải theo văn hóa ngoại tộc.
Thời Mãn Thanh, đàn ông TQ phải để đuôi sam theo kiểu tóc tộc Mãn, các triều
thần phải khúm núm tự xưng là “nô tài” trước Hoàng đế người Mãn. Chính quyền TQ
với đội ngũ quan lại cơ sở hầu hết là người Hán thời kỳ đầu còn bỏ chữ Hán,
dùng chữ Mãn, và từng chặt đầu hàng triệu đàn ông TQ không chịu để đuôi sam.
Hán tộc và các tộc Bách Việt đều coi nhà Nguyên và nhà Thanh là vương triều của
mình, tuy thực ra đó chỉ là vương triều thực dân; thậm chí coi hoàng đế Thành
Cát Tư Hãn của đế quốc Mông Cổ là anh hùng, coi Khang Hy là minh quân của người
TQ…
Tóm lại,
từ những khác biệt nhiều mặt kể trên, có thể khẳng định: Người Việt Nam thời cổ
không phải là người di cư từ phương bắc xuống; trước khi nhà Tần xâm lược Việt
Nam, dân ta không có quan hệ với các tộc người ở bên kia biên giới phía bắc.
Dân tộc ta không phải là thành viên của cộng đồng Bách Việt. Tổ tiên ta chưa
bao giờ ngừng đấu tranh giành độc lập dân tộc và trên thực tế đã giành được
những thắng lợi vĩ đại, giữ được nguyên vẹn nòi giống và lãnh thổ. Chúng ta
kiên quyết giữ vững truyền thống đó, không cho phép bất cứ kẻ nào xâm phạm đất
nước này.
——————-
[1] 党报:中国再给越南机会奉劝浪子早回头
(2014.6.19 人民日报海外版 ) Báo Đảng: TQ một lần nữa cho VN cơ hội, hết lòng khuyên
kẻ hư hỏng VN sớm tỉnh ngộ trở về (Nhân dân nhật báo, bản phát hành ra nước
ngoài)
[2] Tộc người Hán: Một bản
sắc được kiến tạo, Tia Sáng, 21/06/2019.
[3] Lạm bàn về tính ghi ý
của chữ Hán (Nhân đọc “Nghiên cứu chữ Hán hiện đại của thế kỷ XX”), Tia Sáng, 26/06/2019.
[5] Công bố nghiên cứu lớn
nhất về bộ gen của người Việt, Nhân Dân, 16/07/2019.
[6] “越南反华情结:教科书写“越南史就是中国侵略史” Tình cảm chống TQ của VN: Sách
giáo khoa VN viết “Lịch sử VN là lịch sử TQ xâm lược”
Nguồn: Nghiên cứu Quốc tế
Nhận xét