6009. Chiến lược nào cho Việt Nam giữ yên biển?
CHIẾN LƯỢC NÀO CHO VIỆT NAM GIỮ YÊN BIỂN?
Tác giả: TS. Nguyễn Ngọc Chu
Trong bối cảnh hiện nay, chúng ta phải làm gì để bảo vệ ngư dân, bảo vệ chủ quyền biển đảo? Bài viết của TS Nguyễn Ngọc Chu đã nêu những vấn đề mấu chốt nhất từ việc phân tích âm mưu và chính sách của Trung Quốc ở Biển Đông. PNTB trân trọng giới thiệu.
Muốn hòa bình trên biển nhất thiết phải có lực lương quốc tế.
I. Các kế sách của Trung Quốc độc chiếm biển Đông Nam Á.
1. Phải nhận thức cho đúng rằng Trung Quốc
đã tiến hành một cuộc chiến tranh thực sự trên Biển Đông Nam Á. Đó là cuộc
chiến tranh không tiếng súng chiếm Đông Hoàng Sa năm 1956. Đó là cuộc chiến
tranh súng đạn chiếm Tây Hoàng Sa năm 1974 và bảy đảo chìm nổi ở Trường Sa năm
1988.
Sau Gạc Ma 1988, Trung Quốc đang tiến hành
một cuộc chiến tranh không cần tiếng súng mà có thể chiếm trọn Biển Đông Nam Á.
Không nhận thức đúng sẽ không có chiến lược đối phó đúng.
2. Một kế sách nòng cốt của Trung Quốc để
chiếm trọn Biển Đông Nam Á là đàm phán song phương.
Với kế sách song phương, Trung Quốc loại bỏ
cộng đồng quốc tế - là các quốc gia không có biển thuộc Biển Đông Nam Á ra khỏi
vấn đề Biển Đông Nam Á.
Với kế sách đàm phán song phương, Trung
Quốc tách các quốc gia Đông Nam Á ra thành từng đối thủ riêng rẽ, đè nát từng
đối thủ một. Tin vào chính sách song phương rồi tiến hành đàm phán song phương
là dâng biển nước mình cho Trung Quốc.
3. Kế sách chìa khóa cốt lõi thứ 2 của
Trung Quốc là dùng Hải Quân Trung Quốc xua đuổi các tàu thuyền và tàu đánh cá
của ngư dân các nước khỏi vùng biển quốc tế và khỏi cả chính vùng biển trong
lãnh hải của họ.
Để làm việc này, Trung Quốc sử dụng lực
lượng Hải quân Trung Quốc, bao gồm dùng hàng chục chiến hạm, hàng trăm tàu cảnh
sát biển, và hàng ngàn tàu quân sự trá hình ngư dân đánh cá.
4. Kế sách chìa khóa cốt lõi thứ 3 của
Trung Quốc là huy động hàng chục vạn tàu cá của ngư dân Trung Quốc chiếm lĩnh
không chỉ vùng biển quốc tế mà hoạt động đánh bắt thường xuyên và sâu trong
lãnh hải các quốc gia chung Biển Đông Nam Á.
5. Kế sách chìa khóa cốt lõi thứ 4 của
Trung Quốc là thường xuyên thực thi chính sách cấm bắt đánh cá và đi lại trên
Biển Đông Nam Á. Dùng lực lượng Hải quân và cảnh sát biển để thực thi , biến
Biển Đông Nam Á thành biển riêng của Trung Quốc.
6. Chính sách chìa khóa cốt lõi thứ 5 của
Trung Quốc là thường xuyên đưa cư dân Trung Quốc đến các đảo Trung Quốc chiếm
đống ở Hoàng Sa và Trường Sa để khẳng định chủ quyền.
7. Chính sách chìa khóa cốt lõi thứ 6 của
Trung Quốc là kiểm soát vùng trời Biển Đông Nam Á.
II. Điểm yết hầu của các nước khu vực biển Đông Nam Á.
1.Điểm yếu yết hầu của các nước có chung
Biển Đông Nam Á là sợ chiến tranh với Trung Quốc.
2. Vì sợ chiến tranh với Trung Quốc nên
phải ngồi vào đàm phán song phương với Trung Quốc. Thậm chí còn ngu dốt hơn là
đã ve vãn Trung Quốc - mong Trung Quốc ưu ái riêng cho mình. Đó là mắc mưu
Trung Quốc. Tự mình hại mình.
3. Sợ chiến tranh với Trung Quốc nên tránh
va chạm với Trung Quốc. Đành nhường biển cho Hải quân và thuyền cá ngư dân
Trung Quốc.
III. Ai là người thực sự giữ biển cho Việt nam?
Ngư dân Việt Nam mới là lực lượng số 1 thực
thi chủ quyền biển của Việt Nam. Chính đồng bào ngư dân mới là người thường
ngày thực thi chủ quyền biển Việt Nam, bao gồm lãnh hải Việt Nam và vùng biển
quốc tế trong Biển Đông Nam Á.
Nếu ngư dân Việt Nam bị Hải Quân Trung quốc
xua đuổi khỏi ngư trường trong lãnh hải quốc tế và trong lãnh hải Việt Nam thì
trên thực tế Việt Nam đã mất chủ quyền biển ở những vùng bị Hải quân Trung Quốc
xua đuổi.
IV. Hải quân Việt Nam phải hùng mạnh
Chiến tranh trên biển khác xa với chiến
tranh trên bộ. Trên bộ thì một tiểu đội có thể cầm cự với một trung đoàn. Nhưng
trên biển, một tàu chiến không thể kháng cự với một hạm đội.
Cho nên Hải quân Việt Nam phải hùng mạnh.
Đó là điều không bàn cãi. Nhưng hùng mạnh đến mức độ nào? - là câu hỏi sẽ được
trả lời trong một bài viết khác.
V. Phải hiện đại nhanh lực lượng cảnh sát biển Việt Nam.
Điều cấp thiết trong nhóm các điều cấp
thiết để bảo vệ chủ quyền biển Việt Nam là gấp rút hùng mạnh hóa lực lượng cảnh
sát biển. Lực lượng cảnh sát biển yếu thì không thể xua đuổi tàu Trung Quốc ra
khỏi lãnh Hải Việt Nam, không bảo vệ được ngư dân Việt Nam trong lãnh hải Việt
Nam – và như vậy là làm suy yếu chủ quyền biển Việt Nam.
VI. Muốn có hòa bình trên biển, nhất thiết phải có lực lượng Quốc tế.
1.Lực lượng quốc tế qua lại trên Biển Đông
Nam Á nên họ quan tâm và có trách nhiệm bảo vệ tự do hàng hải ở Biển Đông Nam
Á. Bởi thế Hải quân quốc tế và cảnh sát biển quốc tế là nhân tố không thể thiếu
trên Biển Đông Nam Á.
2. Để làm thất bại cuộc chiến tranh chiếm
Biển Đông Nam Á của Trung Quốc không thể thiếu lực lượng hải quân và cảnh sát
biển quốc tế.
3. Chỉ có lực hượng hải quân và cảnh sát
biển quốc tế mới trấn giữ không cho hải quân Trung quốc xua đuổi ngư dân đánh
cá Việt Nam và các nước khác trên lãnh hải quốc tế.
Chỉ có lực lượng hải quân quốc tế mới trợ
gúp và tiếp sức cho cảnh sát biển Việt Nam xua đuổi tàu đánh cá của Trung Quốc
khỏi lãnh hải Việt Nam.
Chỉ có lực lượng hải quân quốc tế mới làm
cho Hải quân Trung quốc bớt ngông cuồng và không dám ngang ngược gây chiến trên
Biển Đông Nam Á.
KẾT LUẬN
1. Khi ông Ngô Xuân Lịch đang “hùng biện” ở
Shangri – La: “Tôi và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Trung Quốc Ngụy Phượng Hòa đã
thống nhất… biến Biển Đông thành vùng biển “Hòa bình - hợp tác - phát triển”,
thì hàng ngàn thuyền cá của ngư dân Việt Nam đang bị Hải Quân Trung Quốc rượt
đuổi.
Khi ông Ngô Xuân Lịch “tin Trung Quốc luôn
ý thức về vai trò nước lớn của mình ở khu vực, đang khởi xướng ý tưởng xây dựng
“Cộng đồng chung vận mệnh” “, thì vận mệnh của ngư dân Việt Nam đang chìm nổi
trước mũi tàu Hải quân Trung Quốc.
Hải quân Trung Quốc - trong hàng chục chiến
hạm công khai, dưới sắc áo hàng trăm tàu cảnh sát biển, hay chun trốn trong vỏ
bọc hàng ngàn thuyền cá ngư dân – rượt đuổi đâm chìm tàu cá ngư dân Việt Nam
trong lãnh hải Việt Nam.
Bài diễn văn của ông Ngô Xuân Lịch dẫu
”hùng hồn” về hòa bình bao nhiêu ở Shangri – La cũng không che được cuộc chiến
tranh trá hình của Trung Quốc trên Biển Đông Nam Á.
2. Khi trung Quốc vẽ đường lưới bò chiếm
trọn Biển Đông Nam Á là lúc ở biển Đông Nam Á không còn là vấn đề song phương.
Khi Trung Quốc xây dựng đảo nhân tạo và
quân sự hóa các đảo chiếm đóng để kiểm soát toàn bộ Biển Đông Nam Á thì vấn đề
Biển Đông Nam Á không thể song phương.
Kẻ nào tin vào chính sách đàm phán song
phương của Trung Quốc là dâng Biển nước mình cho Trung Quốc.
Kẻ nào sợ Trung quốc là tự mình đầu hàng
trước Trung Quốc.
3. Hợp tác chặt chẽ với lực lượng hải quân
quốc tế là chiến lược đúng đắn của Việt Nam để ngăn chặn Trung quốc độc chiếm
Biển Đông Nam Á.
Không còn là câu hỏi nghiêng về ai? - mà
hợp tác chặt chẽ với hải quân quốc tế là nhu cầu không thể thiếu của Việt Nam.
Trong đó đứng đầu là Hải quân Mỹ, cùng với Hải quân Anh, Hải quân Pháp, Hải
quân Úc, Hải quân Ấn độ, Hải quân Nhật Bản, tất cả cộng lại là rào cản quan
trọng không cho Trung Quốc ngang ngược trên Biển Đông Nam Á.
Chuyến đi Mỹ sắp tới của Chủ tịch Nguyễn
Phú Trọng phải giải quyết thành công vấn đề hợp tác với Hải quân Mỹ. Lúc đó ngư
dân Việt Nam mới không còn bị Hải quân Trung quốc xua đuổi và đâm chìm trên
biển Việt Nam nữa.
Nhận xét