5841. Tuyên bố của nhóm “Lão Mà Chưa An” về Luật Đặc khu
Tuyên bố của nhóm “Lão
Mà Chưa An” về Luật Đặc khu
(Báo Tiếng Dân)
8-8-2018
Chính
phủ Việt Nam đã trình dự thảo “Luật Đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt Vân
Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc” (Luật Đặc khu) để Quốc Hội thảo luận và thông qua
trong kỳ họp thứ V, Quốc hội khoá XIV, từ ngày 21-5-2018 đến 15-6-2018. Do sự
phản đối mạnh mẽ của nhân dân, ngày 11-6-2018 Quốc hội đã quyết định lùi thời
gian xem xét thông qua dự án luật này sang kỳ họp thứ VI, dự kiến vào tháng
10-2018.
Ngày
10-7-2018, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, trưởng ban chỉ đạo quốc gia về xây dựng
các đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt, đã nói “xin ý kiến rộng rãi nhà khoa
học, nhân dân về đặc khu kinh tế”. Cho đến nay chưa rõ việc “xin ý kiến rộng
rãi” sẽ diễn ra thế nào.
Theo
kế hoạch, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội dự kiến họp trong tháng 8-2018 sẽ bàn tiếp
về Luật Đặc khu để chuẩn bị cho kỳ họp thứ VI. Báo chí đưa tin đã có một tài
liệu phục vụ cho việc tiếp xúc cử tri sau kỳ họp thứ V; tài liệu đó đã nêu một
số vấn đề trong dự thảo luật mà người dân phản đối và đưa ra các lập luận bác
bỏ những sự phản đối đó, tức là nhằm biện minh cho dự thảo luật. Tuy nhiên, cho
đến nay (6-8-2018) các chuyên gia và đông
đảo nhân dân tiếp tục phản đối và yêu cầu huỷ dự án luật này.
Ngày
4-8-2018 báo chí tưởng thuật rằng trong phiên họp từ 8-8 đến 13-8-2018 Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội chưa xem xét luật đặc khu.
Dự
luật Đặc khu đã được trình hay sẽ được sửa đổi vẫn phải nhằm đạt mục đích được
nêu trong Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 3-6-2017 của Đảng Cộng sản Việt Nam về
“xây dựng một số đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt với thể chế vượt trội để tạo cực tăng trưởng và thử nghiệm đổi mới, hoàn
thiện tổ chức bộ máy thuộc hệ thống chính trị”.
Chúng
tôi phản đối dự luật đặc khu vì một số lý do sau đây:
1)
Trong hai mục tiêu nêu trên của Nghị quyết số 11-NQ/TW thì mục tiêu “với quy chế vượt trội để tạo cực tăng
trưởng” cho đất nước là không thể đạt được nếu chỉ thực hiện tại vài đặc
khu có quy mô dưới cấp tỉnh lớn, như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội hay Đà Nẵng;
còn mục tiêu “thử nghiệm đổi mới, hoàn
thiện tổ chức bộ máy thuộc hệ thống chính trị” với “thể chế vượt trội” cũng
không thể thực hiện được nếu không có sự thay đổi thể chế chính trị ở tầm quốc
gia. Nói cách khác cả hai mục tiêu là bất khả thi nếu không có sự thay đổi
thể chế đồng bộ ở cấp quốc gia theo hướng dân chủ, pháp trị và cai quản
(governance) tiên tiến. Nếu có sự thay đổi như vậy, tức là biến cả nước thành
“đặc khu” (một việc mà chúng tôi hết sức ủng hộ), thì luật về đặc khu chẳng còn
ý nghĩa gì.
2)
Một mục tiêu khác của dự luật (theo Tờ trình của Chính phủ số 411 cho Quốc hội,
tr. 4-5) là “Tạo ra môi trường đầu tư
kinh doanh đặc biệt thuận lợi cho khởi nghiệp sáng tạo, nghiên cứu và phát
triển (R&D), các ngành khoa học, kỹ thuật, công nghệ mới, công nghệ cao
công nghệ sinh học;…” chỉ có thể thực hiện được ở các trung tâm đô thị lớn như
Hà Nội, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và Cần Thơ chẳng hạn. Nhưng hãy xem xét thật
nghiêm túc tình hình của các khu công nghệ cao Hoà Lạc (được thành lập từ 1998
và 20 năm sau vẫn chưa đâu ra đâu: đến 2016 chỉ thu hút được 78 dự án với vốn
đăng ký 60 ngàn tỷ đồng và nhiều dự án đã không thể triển khai và phải thu hồi
giấy phép đầu tư của 17 dự án và nhiều dự án khác đang chậm tiến độ sắp bị thu
hồi giấy phép), Khu Công nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh (SHTP, thành lập năm
2002) có lẽ “thành công” hơn cả đạt gần 3,4 tỷ USD vốn giải ngân trong 16 năm
hoạt động (với 1 tỷ USD của Intel Products và 1 tỷ USD của Nidec, ngoài ra là
vốn giải ngân của các công ty khác) và các doanh nghiệp tại SHTP nộp ngân sách
năm 2017 gần 118 triệu USD, mức xuất khẩu từ SHTP hơn 10 tỷ USD, nhưng SHTP vẫn
chưa được như kỳ vọng sau 16 năm hoạt động. Đó là chưa kể đến sự èo uột của
nhiều khu công nghệ cao ở các nơi khác. Chưa
rút kinh nghiệm để cải thiện các khu công nghệ cao như vậy, thì hỏi làm thế nào
để thu hút đầu tư công nghệ cao, cho khoa học, kỹ thuật, nghiên cứu & phát
triển ở các “đặc khu” xa các trung tâm văn hoá, khoa học kỹ thuật này? Mục
tiêu này là hoàn toàn không có cơ sở và không thể khả thi ở các đặc khu đó.
3)
Mục tiêu tiếp theo (Tờ trình của Chính phủ số 411 cho Quốc hội, tr.5) là “Từ
thực tiễn phát triển của các đơn vị Hành chính Kinh tế Đặc biệt có thể nhân rộng trong cả nước những thể chế, chính
sách và mô hình quản lý mới, hiệu lực, hiệu quả” chắc chắn sẽ thất bại vì những
phân tích 1) và 2) ở trên.
4)
Nền kinh tế Việt Nam đã hội nhập rất sâu
(nếu tính bằng tỷ lệ xuất nhập khẩu trên GDP thì Việt Nam thuộc các nước hội
nhập sâu nhất) vào nền kinh tế thế giới. Cần
cải cách thể chế sâu rộng ở quy mô toàn quốc chứ không phải “thử nghiệm” ở vài
“đặc khu nhỏ”, nói cách khác mô hình
đặc khu không còn phù hợp với Việt Nam ngày nay.
5)
Thế thì tại sao người ta vẫn khăng khăng cố làm các “đặc khu”? Có những dấu hiệu khó chối cãi về sự câu kết giữa các doanh nghiệp
cánh hẩu (nhất là các doanh nghiệp bất động sản) và chính quyền hay một
số người của chính quyền trong việc đổ xô chia chác
đất và các dự án “đón lõng đặc khu” để trục lợi tại Vân Đồn, Phú Quốc và phần
nào ở Bắc Vân Phong. Có sự giống nhau khó chối cãi của sự câu kết như
vậy khi người ta nhất quyết sáp nhập Hà Tây và vài xã Hoà Bình vào Hà Nội 10
năm trước đây.
6)
Tuy dùng từ ngữ rất hào nhoáng (thể chế vượt trội, công nghiệp 4.0, công nghệ
cao, vân vân), nói là “Tạo ra môi trường đầu tư kinh doanh đặc biệt thuận lợi”
cho “dịch vụ, du lịch nghỉ đưỡng cao cấp, công nghiệp văn hoá, dịch vụ hậu cần
cảng biển và sân bay,…” (Tờ trình của Chính phủ số 411 cho Quốc hội, tr. 5)
nhưng thực ra chỉ là để hợp thức hoá sự câu kết nêu
ở điểm 5) ở trên và sẽ chỉ tập trung chủ yếu vào kinh doanh bất động sản,
casino (mà có lẽ là “công nghiệp văn hoá”?), khách sạn, sân bay… đang
được hối hả xây dựng để được hưởng các mức ưu đãi đặc biệt.
7)
Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc đều là các nơi rất
nhạy cảm về an ninh quốc phòng và với việc biến các đặc khu này thành
các khu đặc lợi rất có thể tạo khuyến khích cho
việc gây ra những nguy cơ khôn lường đối với an ninh quốc gia.
Còn
có thể nêu ra các lý do khác cho việc phản đối luật đặc khu.
Vì
các lý do nêu trên, chúng tôi yêu cầu:
1)
Chính phủ huỷ bỏ, không trình dự luật đặc khu dù
dưới dạng đã được trình hay sẽ được sửa đổi (thí dụ bỏ thời hạn thuê đất 99 năm
xuống 50 hay 70 năm, bỏ một số quy định quá ưu ái cho “công dân nước có biên
giới chung với tỉnh Quảng Ninh”, vân vân);
2)
Trong trường hợp Chính phủ vẫn cố ý trình dự luật đặc khu, thì yêu cầu Quốc hội bác bỏ dự luật đặc khu đó.
Nhận xét