5524. Đổi mới II: Pháp quyền và tính chính danh của Nhà nước ở Việt Nam
Đổi mới II: Pháp
quyền và tính chính danh của Nhà nước ở Việt Nam
Lê Vĩnh Triển & Kris Hartley
Lê Vĩnh Triển & Kris Hartley
PNTB: Bài viết này như một góp ý chân thành để tháo gỡ tình hình đất nước. Những người có trách nhiệm về đường lối của đảng và xây dựng hệ thống pháp luật thiết nghĩ nên tham khảo để tiếp tục đổi mới. Hãy tránh bảo thủ, sẽ dẫn đến sự bế tắc, không lối thoát.
Việt Nam
có cơ hội để xác định một mô hình phát triển tự do hóa thế hệ tiếp theo.
Sự phát
triển kinh tế Việt Nam kể từ những cải cách của Đổi Mới 1986 là một mô hình
tiến bộ đối với các nước thành viên ASEAN khác. Từ năm 2000, tăng trưởng GDP
hàng năm của Việt Nam đã đạt mức bình quân 6,4%, đưa quốc gia này trở thành
quốc gia đạt ngưỡng thu nhập trung bình với tốc độ ấn tượng. Là thị trường mới
nổi, với lộ trình chính sách nhất quán, cùng các tham vọng kinh tế làm cho Việt
Nam trở thành thỏi nam châm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, là nguồn tài
trợ cho sự tiến bộ nhanh chóng qua các giai đoạn phát triển.
Tuy
nhiên, quá trình hiện thực hóa tiềm năng kinh tế của Việt Nam còn có thể được
đẩy mạnh hơn nữa bằng cách tăng cường các biện pháp chống tham nhũng. Chống
tham nhũng là việc rất quan trọng để đảm bảo tính chính danh của các đảng chính
trị và các thể chế nhà nước, nhưng những nỗ lực đó trở nên yếu đi nếu không có
luật pháp nhất quán và minh bạch.
Quan sát
các bài học từ các con hổ châu Á Hàn Quốc và Đài Loan, Việt Nam có cơ hội – hơn
ba mươi năm sau khi bắt đầu Đổi Mới – để triển khai một thế hệ cải cách mới –
tạm gọi là “Đổi mới II” nhằm giới thiệu một mẫu hình dân chủ hóa từng bước kiểu
Việt Nam nhằm chống tham nhũng và tăng cường tính chính danh của thể chế. Một
nỗ lực như vậy sẽ củng cố sự tin tưởng của xã hội dân sự đối với chính phủ và
thúc đẩy mong muốn đầu tư từ nước ngoài cũng như trong nước.
Sự tăng
trưởng nhanh chóng của Châu Á là bằng chứng cho thấy phát triển kinh tế và
chính phủ độc đảng không phải là hai thứ không thể tương thích. Ví dụ, ở Hàn
Quốc của Park Chung-Hee (đến năm 1979) và Quốc Dân Đảng của Đài Loan (trước năm
1991), hay Trung Quốc và Việt Nam ngày nay, người ta có thể đạt được những phát
triển nhanh chóng dưới sự cai trị của một đảng. Các ách tắc trong lưu thông tài
sản là mục tiêu được nhắm đến để xử lý thông qua các cải cách thị trường và
được luật hóa bởi những đầu óc thực tế ở cấp cao chính phủ. Như vậy, dân chủ
hoá không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với thị trường tự do, nhưng nó có thể
dẫn tới những cải cách nhằm củng cố niềm tin của nhà đầu tư. Thực thi pháp
quyền nghiêm ngặt hơn, vốn là cách tiếp cận đã được sử dụng để tự do hóa thị
trường, cũng có thể được sử dụng để cải thiện quản trị nhà nước.
Ở Việt
Nam, tăng trưởng từ việc khai thác quá mức các nguồn tài nguyên giá rẻ và nhàn
rỗi đã đến hồi kết thúc, quốc gia này bây giờ phải chấp nhận các mức tăng
trưởng kinh tế thấp hơn. Bất chấp các tổn hại về môi trường, tự do hóa thị
trường đã tạo điều kiện cho việc huy động nguồn lực cho tăng trưởng, nhưng thu
nhập tài chính phần lớn lại vào túi giới có ưu thế kinh tế và chính trị. Điều
này đã tạo điều kiện thuận lợi cho tham nhũng, vấn nạn mà nhiều người giờ đây
đều nhận thấy là phải được loại trừ. Tự do hoá thị trường đã không đi kèm với
việc áp dụng minh bạch và nhất quán pháp quyền trong đời sống chính trị. Trong
khi một số ít được hưởng đặc quyền, sự tăng trưởng nhỏ giọt xuống phía dưới vẫn
giúp giữ cho số đông nghèo khó vừa đủ thỏa mãn để không phải nổi giận trước
thực tế tham nhũng lộ liễu. Liệu cách tiếp cận “thị trường hiệu quả” vốn đã
giải phóng tiềm năng kinh tế trong các cải cách mở cửa của Việt Nam lần đầu có
thể giúp tự do hoá các hệ thống chính trị trong một cuộc cải cách lần nữa hay
không?
Thị
trường Chính trị hiệu quả
Mặc dù có
những tiến bộ kinh tế đáng kể, Việt Nam vẫn là một nhà nước chuyên chế do một
đảng chính trị kiểm soát. Việc vận dụng các nguyên tắc pháp quyền về cơ bản tùy
ở lòng hảo tâm của các nhà lãnh đạo đảng, chứ không dựa trên hệ thống thể chế
công bằng và phi chính trị. Theo khái niệm pháp quyền, pháp luật được đặt trên
quyền lực và phải được thể chế hóa thành một công cụ kiểm soát các lợi ích cá
nhân có khả năng mang tính cướp đoạt, tham nhũng. Tính minh bạch và trách nhiệm
giải trình được thực thi nghiêm túc để đảm bảo công lý và uy tín của nhà nước.
Việc kiểm soát, đánh giá được thực hiện lần nữa bên ngoài phạm vi chính quyền
qua hình thức báo chí độc lập và sự tự do phản đối của công chúng. Các thể chế
chính thức và phi chính thức này thực thi đồng bộ để kiềm chế tham nhũng. Nhưng
ở các nước độc đảng, hệ thống kiểm soát quyền lực không hoàn chỉnh.
Vào đầu
những năm 1980, Đảng Cộng sản Việt Nam nhìn nhận vấn đề hiệu quả kinh tế một
cách trung thực và nhận ra rằng tính chính danh của mình trở nên bấp bênh bởi
những thất bại của kế hoạch hóa tập trung. Tự do hoá kinh tế sau đó mở lối cho
đầu tư, cũng đồng thời cho tham nhũng. Kết quả là các sáng kiến chống tham
nhũng được Đảng cho ra đời. Tuy nhiên, về lý thuyết điều này đã dẫn đến một thế
lưỡng nan, đó là hoặc bưng bít thông tin bằng cách cản trở quá trình xét xử và
kiểm duyệt báo chí, hoặc công khai các phát hiện tham nhũng và đối diện với
nguy cơ tổn hại tính chính danh. Trong kịch bản thứ hai, khi phản ứng giận dữ
của công chúng phá hỏng hình ảnh của đảng thì vẫn có thể được giải quyết bằng
các công cụ đàn áp – đó là sự mạnh tay của cảnh sát, đồng thời trấn áp các phát
biểu. Các cá nhân tham nhũng sẽ được bao che và bảo vệ hay được chuyển sang các
vai trò thấp hơn mà không bị truy tố.
Sự thông
đồng phổ biến kiểu này khiến các nhóm lợi ích trở nên ăn sâu và củng cố mạng
lưới các mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa các cá nhân, tổ chức và các nhóm
có lợi ích liên quan. Về lâu dài, ngay cả những nỗ lực chống lại tham nhũng
thực tâm cũng thất bại vì tình trạng mất lòng tin bắt nguồn từ thói quen ưa bí
mật, phe cánh và bảo kê chính trị. Khi việc chống tham nhũng thất bại, pháp
quyền, độc lập tư pháp, và tự do báo chí là cần thiết cho việc đưa thông tin
đến cử tri và nhà đầu tư. Như vậy, tính chính danh của các thể chế nhà nước,
chứ không phải là của các đảng phái chính trị, nên là mục tiêu cao nhất của tự
do hóa chính trị.
Các mô
hình tự do hóa chính trị ở Châu Á
Việt Nam
ngày nay chia sẻ những điểm tương đồng với Hàn Quốc và Đài Loan trước khi dân
chủ hóa. Với sự cạn kiệt của nguồn thu từ lao động giá rẻ, duy trì tăng trưởng
kinh tế trở nên khó khăn. Thúc đẩy tiềm năng sáng tạo và khởi nghiệp kinh doanh
của công dân có thể giúp một quốc gia thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, hiện
tượng mà các nước đang phát triển đạt đến mức tới hạn của thu nhập nhưng dưới
mức của các nước phát triển. Hàn Quốc và Đài Loan đã tránh được cái bẫy này,
đồng thời đã dân chủ hoá các thể chế chính trị vào giữa những năm 1980 bằng
cách thực thi các hệ thống chính trị đa đảng và pháp quyền. Những cải cách
chính trị như vậy đã giúp cả hai nước có được sự tin cậy quốc tế đối với các cơ
hội đầu tư, và bước vào những giai đoạn phát triển cao hơn. Mặc dù Hàn Quốc lẫn
Đài Loan đều không phải là các quốc gia cộng sản trước khi tự do hoá chính trị,
nhưng cả hai quốc gia này đều là những ví dụ cho sự chuyển đổi chính trị. Có
thể nói, Việt Nam hiện vẫn không phải là quốc gia theo chủ nghĩa cộng sản đúng
nghĩa tuyệt đối, trừ tàn tích đáng kể là các doanh nghiệp nhà nước – vốn trơ lỳ
không hiệu quả, nợ nần tràn ngập, và thiếu hấp dẫn trên thị trường chứng khoán.
Những cải
cách của Đổi Mới đã đưa Việt Nam lên một tầm vóc kinh tế chưa có tiền lệ, tạo
cơ hội cho Đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) có thêm vài thập niên của tính chính
danh và sự ủng hộ của người dân. Tuy nhiên, trong chính trị cũng như trong kinh
tế, các xu hướng có tính chu kỳ. Với Đổi Mới II, ĐCSVN có thể tái khẳng định
tính chính danh của các thể chế nhà nước và tạo cho đảng một di sản của chủ
nghĩa thực dụng và chính sách trọng dụng nhân tài – vốn được Đảng Nhân
dân Hành Động Singapore (PAP) ưa dùng. Tiềm năng tăng trưởng kinh tế cũng sẽ
được củng cố khi các nhà đầu tư từ các nước phát triển (và đa đảng) quan tâm
đến các thể chế nhà nước bền vững hơn là tính hợp pháp ngày càng suy yếu của
một đảng chính trị dễ bị tổn thương.
Việc nhắm
vào các quan chức cấp cao một cách công khai không nên là đặc điểm quan trọng
nhất của các nỗ lực chống tham nhũng. Cách thức chống tham nhũng kiểu nhắm vào
cá nhân đó nặng tính biểu diễn hơn thực chất, và phản ánh sự áp dụng luật pháp
tạm thời (tùy tiện) vốn từ lâu định hình kiểu cai trị độc đảng. Chống tham
nhũng không nên là hàng loạt cuộc tấn công cá nhân ồ ạt và lộn xộn, mà nên là
một sự chuyển đổi mang tính hệ thống và tỉnh táo. Các cải cách sâu sắc giúp thể
chế hóa các tiến trình pháp lý để việc loại bỏ các quan chức tham nhũng là
khách quan về mặt chính trị. Bản thân quy trình nhất quán xuyên suốt các các
trường hợp sẽ tránh được việc bắt bớ do lợi ích chính trị hay thù hận cá nhân.
Nó cũng giúp chính quyền tránh được việc triển khai bộ máy trấn áp, thường là
phương sách cuối cùng và là dấu hiệu của sự tuyệt vọng.
Những nỗ
lực như vậy là một khía cạnh của Đổi Mới II. Nhìn chung, quyền tự do vận động
và lập hội chính trị – cho phép tổ chức các đảng chính trị – cần được đảm bảo,
ngay cả trong một hệ thống do một đảng duy nhất chi phối. ĐCSVN đã tạo ra một
tiến trình phát triển đầy ấn tượng và mang tính lịch sử, và là tác giả tạo ra
các chính sách mới và sáng tạo, Đảng có thể tự tin về tính chính danh và khả
năng cạnh tranh của mình – ngay cả trong một môi trường chính trị cởi mở. Việc
xoá bỏ những hạn chế, lộ liễu hay trá hình đối với báo chí và quyền tự do phát
biểu là cần thiết để cổ vũ một giai đoạn chính trị cởi mở – giai đoạn xác nhận
lại sự lãnh đạo của Đảng thông qua thảo luận tự do các ý tưởng. Sự cạnh tranh
dưới nhiều hình thức sẽ khuyến khích đổi mới và cải tiến. Việt Nam có thể đạt
được về mặt chính trị những gì quốc gia này đã có về mặt kinh tế: những hệ
thống hiệu quả và thực dụng để cải thiện chính kết quả vật chất
Trong
thời đại mà các đảng chính trị trên thế giới đang xem lại chính mình, dung nạp
chủ nghĩa dân túy và hành xử phi lý, tính hợp lý của các định chế nhà nước bền
vững sẽ thay thế các lợi ích cục bộ do một đảng chi phối. Việt Nam có cơ hội để
khẳng định một mô hình phát triển tự do hóa thế hệ tiếp theo, cho lợi ích của
người dân Việt Nam và cho sự tiến bộ của ASEAN.
Tác giả: Lê
Vĩnh Triển & Kris Hartley
Lê Vĩnh
Triển là giảng viên Khoa Quản lý Nhà nước, ĐH Kinh Tế TPHCM. TS. Kris Hartley
là giảng viên Khoa Quy hoạch vùng và thành phố, Đại Học Cornell.
Một phiên
bản tiếng Anh của bài viết đã được đăng trên The Diplomat.
(Nghiên
Cứu Quốc Tế)
Nhận xét