5188. VĂN HÓA VIỆT NAM TIẾP THU VÀ PHẢN KHÁNG VĂN HÓA TRUNG HOA NHƯ THẾ NÀO?
VĂN HÓA VIỆT
NAM
TIẾP THU VÀ PHẢN KHÁNG VĂN HÓA TRUNG HOA NHƯ THẾ NÀO?
(Trích trả
lời phỏng vấn)
![]() |
TS Nguyễn Xuân Diện |
Phạm Thanh Nghiên (P.T.N): Thưa tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện, xin cảm
ơn ông đã vui lòng cho phép chúng tôi thực hiện cuộc trò chuyện hôm nay.
Thưa ông, là
một nhà nghiên cứu về Hán Nôm, về văn hóa và lịch sử, xin ông cho biết một cách
khái quát về sự ảnh hưởng của văn hóa phương Bắc đối với nước ta như thế nào
trong suốt chiều dài lịch sử ?
TS. Nguyễn Xuân Diện (N.X.D): Trước hết xin cám ơn cô Thanh Nghiên đã
hỏi đến tôi, và lại hỏi về một vấn đề mà tôi có chút hiểu biết, có quan tâm.
Về ảnh hưởng
của văn hóa Phương Bắc, mà ở đây là văn hóa Trung Hoa, thì đây là vấn đề thuộc
về quy luật. Các nền văn hóa lớn, lâu đời luôn ảnh hưởng lớn mạnh và sâu rộng
ra chung quanh nó. Văn hóa Trung Hoa do vậy, có sức ảnh hưởng ghê gớm tới chung
quanh. Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam
trong lịch sử đều chịu ảnh hưởng rất sâu đậm văn hóa Trung Hoa. Sự ảnh hưởng
này đến mức người Âu Mỹ đến Hàn, Nhật, Việt đều cho họ cảm giác đang ở Trung
Quốc. Một trong những ảnh hưởng lớn nhất, mang tính quyết định là ảnh hưởng của
chữ Hán đến các nước vừa kể, và từ đó người ta gọi chung các nước có sử dụng
chữ Hán là các nước trong khối “chữ vuông”(tức là chữ Hán, vì mỗi chữ được
trình bày trong một ô vuông).
Chữ Hán là
một văn tự lâu đời, và từ chữ Hán đã làm xuất hiện những đỉnh cao của văn hóa
Trung Hoa và thế giới như: Sở từ, Hán phú, Đường thi, từ Tống, tiểu thuyết Minh
Thanh, nghệ thuật thư pháp...
Do điều kiện
lịch sử, chữ Hán đã được truyền từ Trung Quốc sang Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt
Nam, rồi từ đó lại tiếp tục được sinh sôi tạo nên các chữ viết mới mà chữ Nôm
của người Việt Nam là một ví dụ (chúng ta có chữ Nôm - Việt, chữ Nôm - Tày, chữ
Nôm - Dao…). Ngôn ngữ Hán văn khi truyền sang Việt Nam , đến nay vẫn còn giữ được âm
đọc từ thời Đường, giàu có về âm sắc và thâm trầm về ý nghĩa. Cách sử dụng và
cách đọc chữ Hán của người Việt tạo nên từ Hán Việt rất riêng của Việt Nam và
từ đó dòng văn học chữ Hán và dòng văn học chữ Nôm hình thành và phát triển,
tạo nên các tác phẩm và tác gia văn học lớn.
Với hàng
nghìn năm Bắc thuộc, dân tộc Việt Nam đã bị áp đặt hoặc tự áp đặt cho
mình một mô hình nhà nước theo mẫu của Trung Hoa. Từ chính trị, ngoại giao,
nghi thức, âm nhạc, văn chương, kiến trúc, y dược, tôn giáo…đều ảnh hưởng rất nặng
nề và nhiều khi rập khuôn từ Trung Hoa. Đó là điều khó tránh khỏi!
P.T.N: Thưa ông, vậy cha
ông chúng ta có chống lại hoặc phản kháng sự áp đặt văn hóa của người Phương
Bắc. Và ông lý giải thế nào về sức đề kháng của văn hóa Việt trước sự xâm lăng
của văn hóa Tàu?
N.X.D: Đúng rồi! Trong lịch sử, cứ mỗi lần có một triều đình,
một nhà nước chủ trương xa rời và “ly khai” với ảnh hưởng Trung Hoa thì khi ấy
tinh thần phi Hoa, giải Hoa mạnh mẽ lan tỏa trong lòng xã hội, và khi ấy đất
nước được độc lập thực sự, văn hóa và tư tưởng khai phóng và nhiều thành tựu.
Thời đại Lý
- Trần (thế kỷ XI – XIII) nước Đại Việt học mô hình chính trị Trung Hoa, nhưng
có nhiều sáng tạo, nhiều thành tựu, nhiều thành công là bởi vì Lý - Trần là
thời đại của ĐA NGUYÊN và Khai phóng.
Đa nguyên về
chính trị (các thủ lĩnh tôn giáo Nho - Phật - Lão được vua vời vào cung bàn
chính sự và tham khảo kế sách). Đa nguyên về tôn giáo (Nho - Thích - Đạo tịnh
hành, cùng phát triển); Đa nguyên về văn hóa (Văn hóa Lý - Trần tiếp thu từ
Trung Hoa - Ấn Độ và Chàm).
Chính Đa
nguyên và Khai phóng khiến cho thời đại Lý Trần trở thành một thời đại thịnh
trị, rực rỡ võ công, văn trị, được coi là một thời đại hoàng kim trong lịch sử
trung đại Việt Nam.
Tóm lại, ảnh
hưởng về văn hóa của Trung Quốc đối với ta là tất yếu. Nhưng tự thân sự ảnh
hưởng này đã bao gồm sự tương tác qua lại, và sự tiếp biến văn hóa (tức là làm
mới, làm khác). Chữ Nôm, thơ Nôm song thất lục bát, ẩm thực, ăn vận, điêu khắc
đình làng…là những sáng tạo đặc biệt, riêng khác và độc lập với văn hóa Trung
Hoa. Chính nhờ đó mà văn hóa Việt Nam giữ được bản sắc riêng, và tạo
nên sức đề kháng và sức mạnh nội sinh mà văn hóa dân tộc ta không bị đồng hóa,
thôn tính. Tức là có lúc mất nước, nhưng không mất văn hóa.
Về thể chế,
nếu triều đại nào có vua sáng, tôi hiền thì biết vực cả nước đứng lên độc lập,
đối thoại với Trung Hoa không chỉ biên cương, bờ cõi mà còn cả về văn hóa,
phong tục và ngôn ngữ. Thời đại Lý Trần thế kỷ XI – XIII và thời đại Lê – Trịnh
thế kỷ XVII – XVIII là ví dụ. Thời Nguyễn thì ta rập khuôn theo Tàu, thậm chí
còn “Tàu hơn cả Tàu” nữa, vì vua lú, tôi ngu nên đất nước mất vào tay thực dân
Pháp.
(Trích từ một bài trả lời Phỏng vấn)
Theo Fb Nguyễn Xuân Diện
Nhận xét