5133. Những nghịch lý chết người hay bi kịch của một quốc gia
Những nghịch lý chết người hay bi kịch của
một quốc gia
NGUYỄN QUANG DY
Ông Nguyễn Quang Dy
đã từng học tập và nghiên cứu tại Đại học Quốc gia Úc (ANU, 1976-1979), Đại học
Harvard (Nieman Fellow, 1992-1993), công tác tại Bộ Ngoại giao (1971-2005). Ông
là chuyên gia về nghiên cứu quốc tế, truyền thông báo chí, và đào tạo; đã làm
cố vấn cấp cao cho một số tổ chức/chương trình đào tạo; hiện nay là nhà báo tự
do và nghiên cứu/tư vấn độc lập.(Tia sáng-Bộ Khoa học @ Công nghệ)
“Chính trong những khoảnh khắc đen tối
nhất, ta phải tập trung để thấy được ánh sáng” (It is during our darkest
moments that we must focus to see the light - Aristotle)
Một số nghịch lý chết người có thể làm
chính trị suy đồi và kinh tế tụt hậu, dẫn đến bi kịch quốc gia. Nguyên nhân
chính là do hội chứng cực đoan và ngộ nhận, vì cực đoan thường dẫn đến vô cảm
và ngộ nhận thường dẫn đến vô minh. Vô cảm và vô minh vốn là bi kịch lớn của
con người, như một căn bệnh mãn tính rất khó chữa.
Tại các nước đang chuyển đổi (nhưng
“không chịu phát triển”), cực đoan và ngộ nhận cản trở cải cách thể chế và hòa
giải dân tộc, bỏ qua những cơ hội sống còn để phát triển, làm đất nước ngày
càng suy yếu, cạn kiệt, và phụ thuộc, dễ mất độc lập và chủ quyền. Vì vậy, muốn
thoát khỏi vấn nạn đó, để “kiến tạo” và phục hưng đất nước, người Việt phải
nâng cao dân trí và đổi mới tư duy, để cải cách thể chế và dân chủ hóa.
Nhưng trong bối cảnh phân hóa nội bộ
hiện nay, ai ủng hộ và ai chống lại cải cách thể chế? Theo Lê Kiên Thành, “Nếu
những người có chức có quyền giàu lên nữa thì đất nước này sẽ sụp đổ… Chúng ta
sẽ phải đứng về một phía chống lại 1/3 chúng ta, mà 1/3 này là những người vừa
có tiền vừa có quyền, những người đang được hưởng lợi từ thể chế hiện giờ... Đó
là những nghịch lý mà chúng ta đang phải đối mặt”.
Cực đoan và hận thù hay “tù nhân của quá
khứ”
Khi xem xét lại chiến tranh Việt Nam , người ta
nhận ra “một cuộc chiến sai lầm, sai lầm về địa điểm, sai lầm về thời điểm, và
sai lầm về địch thủ” (a wrong war, at the wrong place, at the wrong time, with
the wrong enemy – John Kennedy, Oct 13, 1960). Đó là một bài học lịch sử cho cả
hai bên, vì ngộ nhận dẫn đến nghịch lý chết người. Phải chăng lịch sử có thể rẽ
ngả khác, nếu John Kennedy nghe lời khuyên của George Ball (thứ trưởng ngoại
giao, đã khuyên tổng thống đừng đưa quân vào Việt Nam ).
Những người “thông minh tài giỏi nhất” (the best and the brightest) cũng có thể
ngộ nhận và mắc sai lầm.
Tuy chiến tranh Việt Nam đã kết thúc hơn bốn thập kỷ, nhưng
bóng ma Việt Nam vẫn còn ám ảnh hai đất nước, và hai
thế hệ người Mỹ cũng như người Việt. Tuy hai nước cựu thù đã bình thường hóa và
trở thành đối tác toàn diện, nhưng hai cộng đồng người Việt đến nay vẫn chưa
thể hòa giải được. Thậm chí trong cùng một cộng đồng, các phe phái cũng coi
nhau như thù địch, dùng bạo lực để triệt hạ lẫn nhau. Vì vậy mới có bi kịch
“Terror in Little Saigon” và “tiếng súng Yên Bái”, như một nghịch lý của người
Việt.
Những người cộng sản cực đoan và những
người chống cộng cực đoan thực ra rất giống nhau, vì họ đều độc tài, không chấp
nhận ai nghĩ khác mình, nói khác mình. Chính họ đã tiếp tay cho nhau, ngăn cản
hòa giải và đổi mới. Chừng nào những ân oán của hai bên chưa được hóa giải, cực
đoan và hận thù (chứ không phải ôn hòa và nhân ái) còn ngự trị trong tâm thức
họ như “tù nhân của quá khứ” thì bi kịch này còn tiếp diễn.
"Kinh tế thị trường định hướng
XHCN” hay “Frankenstein”
Suốt bốn thập kỷ sau chiến tranh Việt Nam , tuy trải qua bao biến động trên thế giới và
trong nước, nhưng Việt Nam
vẫn kiên trì định hướng XHCN, vẫn “đi tìm cái không có” (như lời Bộ trưởng Bùi
Quang Vinh). Chính là cực đoan và ngộ nhận đã xô đẩy Việt Namvào
bãi lầy ý thức hệ, nên vẫn loanh quanh tại ngã ba đường.
Chủ nghĩa tư bản hoang dã hay chủ nghĩa
xã hội thân hữu, về bản chất đều như nhau, đã đi đêm và đẻ ra cái quái thai
“kinh tế thị trường định hướng XHCN”, nay trở thành Frankenstein đang thao túng
quyền lực, làm đất nước suy yếu và tụt hậu. Nói cách khác, các nhóm lợi ích đã
trở thành “tư bản đỏ”, thao túng quyền lực và lũng đoạn chính sách, tạo ra bất
ổn vĩ mô, làm cạn kiệt tài nguyên quốc gia, gây ra thảm họa môi trường, đẩy đất
nước đến chỗ hỗn loạn, dễ mất chủ quyền quốc gia và độc lập dân tộc.
Trước vấn nạn nợ công khổng lồ, như một
đám mây đen lớn đang đe dọa làm vỡ nợ quốc gia, chính phủ kiến tạo không thể
tiếp tục đầu tư tràn lan vào những dự án lợi bất cập hại, duy trì các tập đoàn
nhà nước thua lỗ và tham nhũng. Làm sao có thể kiến tạo và chống tham nhũng nếu
không đổi mới thể chế toàn diện để triệt tiêu nguyên nhân gốc rễ? Chính phủ
không thể bảo lãnh mãi cho con tàu đắm Vinashin và các “quả đấm thép” (nợ đến
237 tỷ USD, bằng 120% GDP), trong khi ngân sách phải “chạy ăn từng bữa”.
Liệu có “ổn định chính trị” nếu bất ổn
về kinh tế
Theo chuyên gia Vũ Quang Việt, nợ công của Việt Nam không phải chỉ sát ngưỡng báo động 65%
GDP (khoảng 94,8 tỷ USD). Nếu tính cả nợ của các doanh nghiệp nhà nước (được
chính phủ bảo lãnh) thì nợ công lên tới 210% GDP, và nợ xấu lên đến 11% GDP
(khoảng 22 tỷ USD).
Trong khi đó dự trữ ngoại hối chỉ có 40
tỷ USD (theo Ngân hàng Nhà nước), nhưng 1/3 trong số đó là trái phiếu chính phủ
Mỹ (không khả dụng).
Theo Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính
sách (VERP), nguồn kinh phí chi cho các tổ chức công chiếm 1,7% GDP (khoảng
71,000 tỷ VNĐ). Trong khi đó hàng năm Viêt Nam phải trả nợ đến hạn (20 tỷ USD năm
2015, và 12 tỷ USD năm 2016). Trong tháng 11/2016, Chính phủ phải vay tới 17 tỷ
USD để chi thường xuyên cho 11 triệu người ăn lương ngân sách và trả lãi các
khoản vay đến hạn, thâm hụt ngân sách hàng trăm ngàn tỷ VNĐ/tháng. Thủ tướng
Nguyễn Xuân Phúc đã cảnh báo khả năng “sụp đổ tài khóa quốc gia”.
Dù Bộ Tài Chính có bán hết vốn các doanh
nghiệp lớn mà nhà nước nắm cổ phần, cũng chỉ thu về được 7 đến 15 tỷ USD, chỉ
đủ chi ngân sách từ một tháng rưỡi đến ba tháng. Trong khi đó kiều hối năm 2016
giảm 30% (khoảng 3 tỷ USD). World Bank tuyên bố chấm dứt ODA cho Việt nam vào
tháng 7/2017 (tiếp theo sẽ là ADB).
Bức tranh kinh tế hiện nay làm người ta liên tưởng đến
Venezuyela. Nếu Trung Quốc không thể cứu Venezuyela (lạm phát tới 700%), liệu
họ có thể cứu Việt Nam ?
Theo Financial Times (4/2016) nợ công Trung quốc năm 2016 tăng vọt lên 237% GDP
(khoảng 28 ngàn tỷ USD). Trong khi đó dự trữ ngoại hối (tính đến đẩu 2017) đã
giảm xuống còn khoảng 3000 tỷ USD, nhưng chỉ một nửa số đó là khả dụng (theo
Gordon Chang).
“Tập trung dân chủ” hay “tam quyền phân
lập”
Làm sao để “kiểm soát quyền lực”, nếu không áp
dụng “Tam quyền phân lập”? Cái gì đã tạo ra bộ máy hành chính quan liêu khổng
lồ, chồng chéo và bất cập? Làm thế nào để “nhất thể hóa” nếu Đảng vẫn độc quyền
lãnh đạo, không dựa trên “pháp quyền” (rule of law)? Trên thế giới không có
chính phủ nào có nhiều bộ trưởng và thứ trưởng như Viêt Nam (22 bộ trưởng và 130 thứ trưởng).
Chính phủ Mỹ và Nhật cũng chỉ có 15-16 bộ trưởng và 16 thứ trưởng. Làm thế nào
để giảm chi tiêu ngân sách, nếu Việt Nam vẫn duy trì hai bộ máy hành chính
khổng lồ, với những “tổ chức quần chúng” phi sản xuất và ăn bám?
Mô hình nhà nước do một Đảng độc quyền
lãnh đạo toàn diện, theo thể chế “tập trung dân chủ” đã lỗi thời và bất cập
trước yêu cầu phát triển của kinh tế thị trường và tiến bộ xã hội. Nếu muốn
“kiến tạo” và chấn hưng đất nước, để đối phó với những nguy cơ và thách thức
mới, Viêt Nam phải “cải cách vòng hai” bằng cách đổi mới thể chế toàn diện, bao
gồm cải cách thể chế chính trị và hiến pháp, theo hướng “tam quyền phân lập”.
“Theo Tàu hay theo Mỹ” là tâm thức
đầy ngộ nhận
Trước đây Việt Nam đã phải đối phó với nan đề “theo Liên
Xô hay theo Trung Quốc”. Có lúc Viêt Nam đã “theo cả hai” bằng cách cân bằng để
tranh thủ nguồn lực chống Mỹ (trước 1975). Có lúc ViệtNam đã theo Liên Xô để chống Trung Quốc
(giai đoạn 1979-1989). Thậm chí Việt Nam đã từng ghi vào Hiến pháp rằng Trung
Quốc là “kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất” (mà Nayan Chanda chơi chữ gọi là
“Brother Enemy”).
Nhưng rồi sau đó Việt Nam lại
“xoay trục” theo Trung Quốc tại Thành Đô (9/1990) với phương châm “16 chữ
vàng”. Đó là quyết sách cực đoan do ngộ nhận về bạn thù và ý thức hệ, mà quên
mất “chỉ có lợi ích quốc gia là vĩnh viễn”. Khi Washington bắt tay với Bắc Kinh
(từ 1972) họ đã bỏ rơi Đài Loan và Nam Việt Nam, mặc cho Trung Quốc chiếm Hoàng
Sa (1974). Khi Moscow hòa hoãn với Bắc Kinh, họ cũng mặc cho Trung Quốc đánh
chiếm Gac Ma và 4 đảo Trường Sa (1988), tuy họ là “đồng minh chiến lược” với
ta. Đó là những bài học đau đớn để chúng ta đừng ngộ nhận và ngây thơ về quan
hệ các nước lớn.
Muốn độc lập dân tộc và bảo vệ chủ quyền quốc
gia, phải dựa vào sức mạnh nội lực là chính. Muốn vậy phải hòa giải dân tộc và
cải cách thể chế để “khai dân trí”, giải phóng năng lượng yêu nước và tinh thần
dân tộc, “chấn dân khí” để phục hưng đất nước. Chính sách “cân bằng thụ động”
(“đu dây” bằng nguyên tắc “ba không”) tuy cần thiết như một sách lược (nhất
thời) để đối phó tình huống, nhưng “cân bằng tích cực” mới là chiến lược (lâu
dài).
Người Việt phải học hỏi người Đức về hòa giải
dân tộc và thống nhất đất nước. Phải cải cách thể chế và dân chủ hóa mới chấn
hưng được đất nước, để đối phó với những biến động chính trị bất thường và bất
định (như Brexitism và Trumpism). Muốn “cân bằng tích cực” với Mỹ và Trung
Quốc, Việt Nam phải
tăng cường hợp tác chiến lược với các cường quốc khu vực (như Nhật, Ấn Độ, Úc)
trong một khuôn khổ đối tác chiến lược mới.
“Còn Đảng còn mình” hay chuẩn bị tháo
chạy
Theo IOM (International Organization for
Migration) sau 25 năm tính từ 1990 đến 2015, đã có 2.558.678 người Việt di cư
ra nước ngoài, tính trung bình mỗi năm có khoảng 100.000 người Việt di cư. Việt Nam nằm trong “Top 10” các quốc gia có số
du học sinh nhiều nhất thế giới.
Trong tổng số trên 4,5 triệu người Việt
đã di cư (tính đến 2015), số người định cư bằng đầu tư đang tăng lên đáng kể.
Chỉ riêng loại visa EB-5 (dành riêng cho các đối tượng đầu tư vào Mỹ) đã tăng
chóng mặt so với các loại visa khác (như EB-1, EB-2). Số lượng visa EB-5 từ
6.418 suất (năm 2014) đã tăng vọt lên 17.662 suất (năm 2015).
Đến nay, Viêt Nam có 21,000 du học sinh ở Mỹ, trong đó
đa số là con em các gia đình quan chức cao cấp và trung cấp. Hồ sơ Panama tiết
lộ Việt Nam có tới 189 cá nhân và tổ chức, với 19 công ty vỏ bọc được thành lập
ở nước ngoài, chủ yếu là tại các “thiên đường trốn thuế” (như Cayman và Virgin
Islands). Sau khi ông Trump thay đổi chính sách nhập cư vào Mỹ, nhiều người
Việt chuyển hướng di cư sang Canada và Australia .
Người Việt Nam (cũng
như người Mỹ) đang đối mặt với quá nhiều biến số và ẩn số.
Tại hội thảo “Kịch bản Kinh tế Viet Nam
2017” (tp HCM, 9/3/2017) tiến sỹ Trần Đình Thiên (Viện trưởng Viện Kinh tế) đã
cảnh báo về tình trạng “tẩu tán tư bản”, với số triệu phú người Việt di cư ra
nước ngoài ngày càng tăng. Ngoài dòng tiền đầu tư chính đáng ra nước ngoài, còn
có dòng tiền chạy ra ngoài bất hợp pháp theo dòng người di cư, trong đó nhiều
triệu phú là quan chức đã có sẵn kế hoạch bỏ chạy (một khi bị truy cứu trách
nhiệm). Đến nay, tổng cộng đã có 92 tỷ USD được chuyển phi pháp ra khỏi Viêt Nam .
“Hoàng hôn nhiệm kỳ” hay tranh thủ vơ vét
Các nhóm lợi ích tranh nhau vơ vét, chia chác mọi
thứ, làm cạn kiệt tài nguyên quốc gia. Họ “ăn không từ một cái gì” (theo lời
phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan). Hết nạc họ vạc đến xương. Sau khi đã bán rẻ
Vũng Áng cho Formosa ,
họ định bán nốt Cà Ná. Sau khi đã ăn hết dầu khí, than, thủy điện, bauxite,
vonphram, ruộng đất…làm rừng vàng biển bạc cạn kiệt, họ tìm cách ăn nốt cát
nhiễm mặn. Phải chăng dự án thép Cà Ná và chủ trương khai thác cát để xuất khẩu
là “làn ranh đỏ” (red line) của thực trạng “hoàng hôn nhiệm kỳ”?
Năm 2010, chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã
ký văn bản cấm xuất khẩu cát nhiễm mặn. Nhưng đến 2013, Bộ Xây dựng lại cho
phép xuất khẩu cát nhiễm mặn qua hình thức “xã hội hóa” với lý do “nhằm tiết
kiệm chi phí nạo vét thông luồng”. Đây là nhiệm vụ của Bộ Giao thông Vận tải
dùng ngân sách để làm, tại sao phải “xã hội hóa” để các doanh nghiệp khác thác
cát tràn lan, tiếp tay cho các nhóm lợi ích bán rẻ nốt tài nguyên quốc gia?
Theo phóng sự điều tra nhiều kỳ của báo
Tuổi trẻ (1-3/3/2017), hầu hết các tàu chở cát từ Phú Quốc đều đến Singapore (đảo Tekong và Changi). Từ năm 2013
đến cuối năm 2016, Việt Nam đã xuất 43 triệu m3 cát. Theo các hợp
đồng xuất khẩu, giá bán cát chỉ từ 0,8 đến 1,3 USD/khối, trong khi giá bán trên
thực tế là hơn 4 USD/khối. Vậy chênh lệch giá đi đâu? Việt Nam không chỉ mất tài nguyên cát, thất thu
ngân sách (vì giá bán cát trên giấy tờ là quá thấp), mà còn gây sụt lở ngiêm
trọng, và nguy hại cho an ninh quốc gia.
Theo số liệu thống kê, từ năm 2016 Bộ
Xây dựng, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Quốc phòng và các địa phương (là “chủ đầu
tư”) đã phê duyệt 40 dự án nạo vét, tận thu một khối lượng cát khoảng 250 triệu
m3. Dẫn đầu hoạt động “xã hội hóa” này là Bộ Quốc Phòng và chính quyền 11 tỉnh
ven biển: Kiên Giang, Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Ðịnh,
Quảng Nam, Thừa Thiên-Huế, Quảng Bình, Quảng Trị, Hà Tĩnh. Cuộc chiến giành
quyền nạo vét cát không chỉ dọc các tỉnh ven biển, mà còn trên các dòng sông.
Tranh chấp tại Sông Cầu giữa Bắc Ninh và Bộ GTVT là “phần nổi của tảng băng
chìm”.
Ngoài Singapore ,
Trung Quốc cũng tích cực thu mua cát giá cao nhằm bồi đắp các đảo, đá mà họ
chiếm của Việt Nam .
Các hoạt động nạo vét, bồi đắp các đảo nhân tạo, nhằm mở rộng diện tích các
đảo, đá mà họ chiếm đóng trái phép (như Châu Viên, Chữ Thập, Gạc Ma, Ga Ven và
Ken Nan) đã diễn ra với quy mô lớn. Từ năm 2014, diện tích các đảo, đá mà họ
chiếm tại Biển Đông đã tăng lên 400 lần (tương đương 800ha). Vậy họ lấy cát ở
đâu? Không loại trừ doanh nghiệp của ta đã lặng lẽ bán cát cho họ. Nếu đúng là
có chuyện này, thì đó có phải là hành động phản quốc? Không thể vừa bảo vệ chủ
quyền quốc gia, vừa dung túng cho những kẻ làm tay sai cho ngoại bang (như
Formosa & MCC, Huawei & OPPO).
Như trước khi con tàu đắm
Theo Wikileaks (6/1/2017), có khoảng 65% quan chức
cấp cao đã có kế hoạch chạy khỏi Việt Nam (một khi có biến). Như đã thành thông
lệ, khi có quan chức tham nhũng nào bị “sờ gáy”, là lại nghỉ phép trốn ra nước
ngoài “chữa bệnh” (không biết bệnh gì). Kèm theo dòng người di cư là dòng vốn
đi theo. Chỉ tính riêng năm 2015, đã có 19 tỷ USD chạy ra khỏi Việt Nam .
Đó là hiện tượng tẩu tán vốn hay “bỏ phiếu bằng chân”, trước thực trạng của đất
nước ngày càng bi đát như hình ảnh con tàu Vinashin đang chìm.
Bức tranh Viêt Nam là một bản sao bức tranh Trung Quốc.
Theo phó chủ tịch nước TQ Lý Nguyên Triều (Đại Kỷ Nguyên, 30/12/2016), điều tra
nội bộ trước đại hội Đảng 18 cho thấy trên 85% quan chức cấp cao đã cho vợ con
định cư, mua nhà ở nước ngoài, chuẩn bị ra đi trước nguy cơ “vong Đảng”. Theo
Reuters, dự trữ ngoại hối đã giảm 70 tỷ USD (trong tháng 11/2016) và 41 tỷ USD
(trong tháng 12/2016), nay chỉ còn 3.010 tỷ USD.
Mỹ không còn là địa chỉ an toàn để rửa
tiền tham nhũng. Liệu chính quyền Trump có triển khai “Luật Nhân Quyền
Magnisky” (mà ông Obama đã ký) nhằm cấm nhập cảnh và đóng băng tài sản của
những người vi phạm nhân quyền? Liệu chính phủ Việt Nam có tiến hành một chiến dịch “Săn Cáo”
như chính quyền Tập Cận Bình đang làm?
Theo giáo sư Minxin Pei , chiến dịch
chống tham nhũng của Tập Cận Bình cho thấy tình trạng tham nhũng đã ăn sâu vào
mọi ngõ ngách của chế độ (nhất là từ thời Giang Trạch Dân). Tuy nhiên, hoạt
động chống tham nhũng vẫn chưa chạm đến cái gốc rễ quan trọng nhất là “tham
nhũng đất đai”. Có đến 90% quan chức có thể bị bắt bất cứ lúc nào, trong khi số
“quan thanh liêm” chỉ chiếm có 0,000001% dân số. (VOA, 29/10/2016).
Chỉ cần quan sát dòng người và dòng vốn chạy đi
đâu là biết tình trạng đất nước ra sao. Dòng người di cư ngày càng đông, gồm cả
doanh nhân, trí thức, và quan chức, là dấu hiệu bất ổn về “chảy máu chất xám”
(brain drain) và “tẩu tán vốn”, làm đất nước kiệt quệ. Đó là bi kịch của một
quốc gia thiếu dân chủ, bị các nhóm lợi ích thao túng, trì hoãn đòi hỏi cấp
bách phải đổi mới thể chế, để họ tranh thủ vơ vét nốt trước khi con tàu đắm.
NQD. 18/3/2017
(Theo FB. Thái Kế Toại).
Nhận xét