5108. Quản lý vỉa hè xưa ở Hà Nội
Quản lý vỉa hè
xưa ở Hà Nội
Trong quy hoạch một đô thị văn minh, vỉa hè là khoảng công cộng
dành cho người đi bộ. Còn theo kiến trúc, vỉa hè là đường diềm, trang trí cho
phố phường tạo ra sự hài hòa giữa đường và nhà mặt phố.
Người Pháp đã làm những điều đó ở Hà Nội từ cuối thế kỷ 19.
Cho thuê vỉa hè, dân mặt phố phải dọn vệ sinh
Sau khi chiếm được thành Hà Nội năm 1882, chiếm Hà Nội năm 1883,
Công sứ Bonnal đưa ra chủ trương cải tạo khu vực quanh hồ Gươm. Việc đầu tiên,
Bonnal cho làm con đường quan trọng từ khu nhượng địa Đồn Thủy (nay tương ứng
khu vực phố Phạm Ngũ Lão) vào thành để chở vũ khí, lương thực cho binh lính
Pháp đóng ở đây. Con đường bắt đầu từ Đồn Thủy qua Hàng Khảm (nay là Tràng Tiền
và Hàng Khay), Tràng Thi đến Cửa Nam rồi vào thành. Đường hoàn thành
cuối năm 1885, rộng hơn 10 m, riêng đoạn Tràng Tiền hai bên có vỉa hè được lát
gạch, trồng phượng để giảm bớt nắng nóng vào mùa hè ở xứ Bắc kỳ. Và vỉa hè
Tràng Tiền là vỉa hè đầu tiên theo kiểu phương Tây ở Hà Nội.
Công việc cải tạo và xây dựng khu phố phía nam hồ Gươm cần nhiều
thời gian và tiền bạc. Vì thế đến năm 1889 mới chỉ vài phố quanh hồ Gươm có vỉa
hè, song để Hà Nội nề nếp và quy củ, Thống sứ Bắc Kỳ đã ra nghị định quản lý đô
thị (đăng trên Công báo ngày 21.4.1890), trong đó điều 1 ghi rõ: “Những phố
hiện có và sẽ được tạo nên có chiều rộng lòng đường và vỉa hè được chỉ định”,
kèm theo là phụ lục gồm các phố đã có và các phố sẽ mở. Với các phố ở khu vực
“36 phố phường”, vỉa hè hẹp nhất cũng phải 3 m, một số phố sẽ là 4 m. Với các
khu phố ở phía đông và phía nam hồ Gươm như: Ngô Quyền, Lê Phụng Hiểu, Hàng
Bài, Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo... vỉa hè tối thiểu phải rộng 5 m, phố rộng
nhất là 7,5 m.
Để nhà mặt phố hài hòa với vỉa hè, trong Quy chế lục lộ ban hành
ngày 21.9.1891 ghi cụ thể: “Vỉa hè rộng 3 m thì bậc cửa ra vào chỉ được phép
cao 10 cm, vỉa hè rộng 5 m thì bậc cửa là 15 cm và vỉa hè rộng 7,5 m thì bậc
cửa cao 20 cm...”. Bên cạnh đó còn có quy định về chiều cao, cửa sổ, ban
công... rất chi tiết. Quy chế cũng quy định: “Tất cả chủ nhà mặt phố, người
thuê phải có trách nhiệm dọn vệ sinh hè phố trước cửa nhà, khơi thông rãnh
thoát nước, nếu không thực hiện sẽ bị phạt theo các điều của bộ luật Hình sự
nước Pháp”. Cũng theo quy chế thì cánh cửa ra vào nhà mặt tiền phải mở vào
trong, không được mở ra ngoài để tránh gây thương tích cho người đi lại.
Quy định về vật liệu làm vỉa hè rất cụ thể: “Vỉa hè được lát
bằng đá hình vuông khổ 30 x 30 cm, dày 3 cm, trên mặt khía chéo để tránh trơn
trượt cho người đi đường. Mép hè là đá xanh chôn sâu xuống mặt đường vừa làm bờ
rãnh thoát nước vừa làm vật chắn phòng xe ngựa lao lên hè gây thương tích cho
người đi bộ”. Trên vỉa hè bao quanh nhà Godard (nay là Tràng Tiền Plaza ), trước lối vào có dòng chữ tiếng
Pháp “Khu vực cấm để xe đạp” bằng đá trắng gắn chìm vào vỉa hè.
Để có nguồn vốn bảo trì vỉa hè mà không dùng ngân sách, ngày
20.12.1889, Đốc lý Hà Nội Landes đã ban hành một nghị định cho thuê vỉa hè để
dân mở cửa hàng hay bán cà phê với giá 40 xu/m2/năm. Cùng với đó, chính quyền
cũng đánh thuế ban công, thuế ô văng. Với biển quảng cáo, nếu là biển phẳng áp
vào tường không gây nguy hiểm cho người đi bộ sẽ miễn thuế, nhưng nếu làm nhô
ra sẽ thu thuế theo diện tích, số tiền này cũng được đưa vào quỹ bảo trì. Với
cây xanh, sở lục lộ chọn cây thân thẳng, rễ cọc, chiều cao trên 10 m mới tỏa
tán để đảm bảo tính mạng, tránh thương vong cho người trong mùa mưa bão. Hằng
ngày, cảnh sát lục lộ đi tuần, họ đạp xe quanh các phố, nếu phát hiện vi phạm
thì xử phạt, nếu không có tiền sẽ đưa về bót.
Đầu thế kỷ 20, số khách sạn hạng sang xuất hiện ngày càng nhiều
quanh khu vực hồ Gươm thì chủ khách sạn đã thuê vỉa hè mở quán cà phê dọc theo
mái hiên. Không chỉ người Pháp sống ở Hà Nội, khách du lịch châu Âu đến thành
phố này rất thích thú khi ngồi uống cà phê vỉa hè ngắm phố.
Thập niên 1930, dân số lúc này đã tăng lên 300.000 người, số
lượng xe kéo tăng vọt, xe đạp xuất hiện trên phố nhiều hơn và trở thành phương
tiện giao thông cá nhân chủ đạo. Trước sự lộn xộn của phương tiện này, ngày
25.5.1933, Đốc lý Louis Frédéric Eckert ra quy định: “Trước các cửa hàng phải
có giá để xe đạp cho khách” (giá làm bằng sắt, hình bán nguyệt, để đưa bánh
trước vào). Quy hoạch cũ đã lạc hậu, không còn phù hợp, năm 1936 Toàn quyền
Đông Dương Silvestre quyết định cho quy hoạch lại Hà Nội. Trong bản quy hoạch
Henri Ceruti được phê duyệt năm 1943, có một phần bắt buộc các trung tâm thương
mại phải có chỗ đậu xe cho khách hàng, các bãi đất trống làm bãi đậu xe công
cộng. Tuy nhiên, lúc này quân đội Nhật đã chiếm Đông Dương nên quy hoạch không
được thực hiện.
Vỉa hè thành “chợ” từ khi nào?
Sau năm 1954, các quy định cũ về quản lý đô thị Hà Nội bị bãi
bỏ, nhưng người dân cơ bản vẫn tự giác vệ sinh vỉa hè trước nhà theo nếp đã
hình thành trước đó. Việc cho thuê vỉa hè cũng không còn và từ tài sản công do
thành phố quản lý vỉa hè đã trở thành tài sản của nhân dân.
Khi Mỹ ném bom miền Bắc năm 1964, vỉa hè đẹp đẽ bắt đầu gánh vác
một sứ mạng mới. Người ta cho đào các hầm trú bom cá nhân trên hè phố, mỗi hầm
rộng khoảng 6 - 8 m. Người đang đi trên đường nếu nghe còi báo động từ nóc Nhà
hát Lớn sẽ chui xuống hầm này tránh mảnh bom. Tháng 1.1973, Hiệp định Paris được ký kết, Mỹ
phải rút quân khỏi VN và miền Bắc được sống trong hòa bình thì các hầm trú ẩn
đa phần bị lấp. Ở các phố trung tâm, xí nghiệp quản lý vỉa hè cho láng xi măng
lấp dấu vết hầm nhưng các phố khác thì nó trở thành hố trũng đọng nước mỗi khi
trời mưa. Rồi nước sạch dùng cho sinh hoạt thiếu trầm trọng, nước từ đường ống
chính không chảy nổi vào các vòi trong nhà nên dân hàng phố đua nhau đào bể
trên vỉa hè lấy nước từ đường ống chính. Vỉa hè thành chỗ rửa rau vo gạo, giặt
giũ quần áo, tắm táp vào mùa hè, luộc bánh chưng vào Tết Nguyên đán, là khách
sạn “đờ la hiên” cho các bác xích lô quê. Vỉa hè các phố xa hồ Gươm lồi lõm,
chỗ trơ đất, chỗ còn gạch, lở loét như bị nhiễm trùng.
Suốt thời bao cấp, buổi sáng vỉa hè là chỗ ngồi của mấy bà bán
phở gánh, bán bún ốc, bán bánh cuốn, “đầu hè trung tá bơm xe, cuối hè thiếu tá
bán chè đậu đen”, là nơi các ông chữa xe đạp chiếm cứ dưới chân cột điện, góc
ngã ba ngã tư. Vỉa hè thực sự trở thành nơi họp chợ, vì thế dân gian mới có
câu: “Hàng Bè chợ của thương nhân/Vỉa hè chợ của nhân dân anh hùng”. Từ tài sản
của nhân dân, vỉa hè dần dần bị các nhà mặt phố cát cứ, biến thành lãnh địa
riêng.
Trong lịch sử, vỉa hè Hà Nội không chỉ dành cho người đi bộ mà
còn là nơi kiếm sống của tầng lớp thị dân. Dĩ nhiên, xưa dân số Hà Nội ít,
phương tiện giao thông không nhiều còn nay thì khác. Đó là một bài toán không
dễ cho cơ quan quản lý.
Nguyễn Ngọc Tiến
(Thanh Niên)
Nhận xét