5106. Có bao nhiêu sự thật trong bài thơ Tình già của Phan Khôi?
Có
bao nhiêu sự thật trong bài thơ Tình già của Phan Khôi?
(Nhân 85 năm phong trào Thơ mới (1932 - 2017)
VNTN
- Hơn mười năm trước, có người hỏi tôi: Có bao nhiêu sự thật trong bài thơ Tình già
của Phan Khôi? Câu hỏi
đó đã theo tôi trong suốt một thời gian dài. Cũng câu hỏi này nếu đem hỏi cho
một bài thơ tình nào đó của Xuân Diệu hay của Nguyễn Bính thì có hơi ngớ ngẩn,
chẳng đáng tốn thời gian để suy nghĩ, bởi hai nhà thơ này có tới hàng chục,
thậm chí hàng trăm bài thơ tình; tư duy ở các ông là tư duy của nhà thơ, tư duy
nghệ thuật; sự thực hay hình mẫu được sử dụng cho tác phẩm bao giờ cũng gắn
liền với hư cấu, tưởng tượng. Trong khi đó, Tình già là bài thơ tình duy nhất của Phan
Khôi. Hơn nữa, Phan Khôi tuy có làm thơ, viết truyện ngắn, tiểu thuyết nhưng
trước hết ông là nhà báo; tư duy ở ông là tư duy của nhà báo, chủ yếu là tư duy
luận lý, luôn lấy tiêu chí trung thành với sự thực làm tôn chỉ cho sáng tác của
mình. Vì vậy, con số hai mươi bốn hiện diện tới hai lần trong bài thơ không ai
dám nói chắc là con số phiếm chỉ. Vậy thì con số này có hay không liên quan tới
Phan Khôi? Nếu có thì liên quan tới sự kiện nào trong cuộc đời ông? Cuộc tình
được ông kể lại trong Tình già có phải là cuộc tình của chính ông hay
của một ai khác? Nếu đó là cuộc tình của ông thì nó diễn ra đúng như trong bài
thơ hay có gì khác? Tìm hiểu điều này chắc chắn sẽ rất thú vị vì nó giúp ta
không chỉ hiểu rõ hơn cuộc đời Phan Khôi, một nhà báo lừng danh của nửa đầu thế
kỷ trước, mà còn biết thêm lai lịch Tình già, một bài thơ đi tiên
phong, mở đầu cho thời kỳ Thơ mới.
Năm 2003, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh cho ấn hành Phan Khôi - Tiếng Việt, Báo chí và Thơ mới. Trong tác
phẩm này, nhà nghiên cứu Vu Gia đã dẫn lại tự truyện Tình trong tù của Phan
Khôi đăng trên Đông Dương tạp chí của
Nguyễn Giang số Xuân năm 1939 từ bài viết Phan Khôi qua một chuyện tình trong tù của
nhà văn Thế Phong trên Giáo dục phổ thông số
Xuân, xuất bản tại Sài Gòn năm 1960. Từ khi được soi sáng bởi các thông tin từ Tình trong tù của Phan
Khôi, những nghi vấn về ông qua bài thơ Tình già dường như đã được
hé mở và cái ý định trả lời câu hỏi từ hơn mười năm trước lại thôi thúc tôi…
Theo lời kể của chính Phan Khôi thì vào năm 1908, khi chưa đầy
21 tuổi, do có liên quan tới phong trào kháng thuế, còn gọi là phong trào
xin xâu ở Trung Kỳ, ông đã bị chính quyền thực dân kết án đồ ba năm và giam tại
nhà lao Quảng Nam trong quãng thời gian từ năm 1908 đến năm 1911. Vào tù, ông
mới tỉnh người ra bởi một câu than thở trong lá thư của thân phụ viết cho ông: lập thân nhất bại, vạn sự ngõa giải, nghĩa là:
lập thân mà đã hỏng đi rồi thì vạn sự cũng theo đó mà tan nát. Quả
đúng thế, chỉ một tháng sau, ông đã nhận được lời thối hôn của cha mẹ người vợ
chưa cưới. Điều này tuy không làm Phan Khôi bất ngờ (bởi trước đó ông cũng đã
từng dự đoán Cái tú tài mới đậu xong đã bị tước khử, về sau
còn không được đi thi, như thế con đường làm quan hẳn cụt rồi, không khéo về
nỗi vợ con sẽ còn lôi thôi nữa), nhưng có lẽ đã ảnh hưởng không ít
tới đường tình duyên sắp tới của ông.
Một ngày sau đó không lâu, do được thầy đội đề lao và đám tù
nhân đánh tiếng; ông Ch…, một viên quan võ hàng tứ phẩm đã sai lính tới nhà lao
đưa Phan Khôi về nhà y viết câu đối. Mặc dù người đang hâm hấp sốt nhưng lấy sự
được ra ngoài làm sung sướng nên Phan Khôi phụng mạng theo chân người lính tới
nhà viên quan võ. Cuộc gặp mặt lần đó được chính ông thuật lại như sau:
Đến nơi, thấy một đống cũng đến
chín mười cân lụa đỏ bỏ ngổn ngang trên chiếu giải dưới đất và một nghiên mực
lớn mài sẵn. Một người đàn ông chừng năm mươi tuổi to lớn, mặt đen, mũi to ngồi
trên sập giữa nhà ấy là ông Ch… hất hàm chào tôi. Một thiếu phụ còn trẻ lắm,
trạc tuổi tôi, người trắng trẻo, khuôn mặt trái xoan, cả đầu lẫn cổ quấn cái
khăn nhiễu điều ngồi bên kia sập.
Nhà không có cái ghế nào cả, tôi
ngồi ngay trên cái chiếu dưới đất, chỗ để nghiên mực. Ông Ch… bảo tôi:
- Có biết uống rượu không thì
(…) uống mấy chén mà viết cho dựa tay.
- Bẩm có thì cũng được.
- Nhà còn nước không mình?
Ông Ch… xây hỏi người thiếu
phụ. Tôi nghe mới biết người ấy là bà Ch… vợ ông.
- Có hiếm mấy.
Vừa nói thiếu phụ vừa đứng dậy
đi vào bên trong cầm ra một chai rượu thuốc và một cái cốc rót đưa cho tôi một
cốc đầy.
Tôi uống cạn cốc rượu rồi trải
lụa ra viết. Ông Ch… sợ tôi viết quấy, cứ theo nhắc từng chữ. Tôi lấy làm bực
mình mà không tiện nói thì ông lại còn vẽ cho tôi chữ này viết thế này, chữ kia
viết thế kia. Tôi chừng muốn phát cáu. Người thiếu phụ xuống khỏi sập (…) nói
cùng ông Ch…:
- Tôi xem người này cầm bút là
người viết thạo, xin ông để cho người ta viết tự do.
- Bà nói lạ. Câu đối lụa ít
tiền lắm sao?
- Nhưng đã có ai làm hư của ông
đâu? Ngồi kiềm một bên thì còn ai viết được nữa chứ?
Ông Ch… hình như chịu vợ nói
phải, bước ra khỏi chiếc chiếu rồi hai vợ chồng đứng coi tôi.
Bấy giờ tôi thấy dễ chịu, hươi
cây bút như rồng bay phượng múa, hết đôi này đến đôi khác, càng viết càng thấy
tốt. Người thiếu phụ cứ đưa con mắt theo ngòi viết tôi. Còn hơn đôi nữa thì
hết, ông Ch… bảo vợ:
- Mình ơi mình. Rót thêm cho va
cốc nữa đi!
Người thiếu phụ ngoan ngoãn,
rót cốc rượu đặt trước mặt tôi và nói:
- Nghỉ tay uống rượu đã thầy.
Tôi vâng lời như cái máy. Viết
xong, tôi cung kính chào ông Ch. ..:
- Bẩm quan lớn…
Ông gật. Tôi lại hướng về người
thiếu phụ:
- Bẩm bà lớn tôi vào.
Thì người đứng dậy:
- Tôi không dám, thầy lên.
Có tất cả ba nhân vật hiện diện trong đoạn trích và cả ba đều đáng
được quan tâm nếu muốn tìm hiểu mối quan hệ giữa cuộc đời Phan Khôi và bài thơ
“Tình già”. Ông Ch…, một viên quan võ hàng tứ phẩm có nhiệm vụ trông coi nhà
lao mà Phan Khôi là tù nhân. Lúc Phan Khôi vào tù, ông này đã trên dưới năm
mươi, thuộc loại đứng tuổi. Nhìn bề ngoài, ông hơi dị tướng với thân hình to
lớn, mặt đen, mũi to, sống mũi đỏ, tiếng nói ồ ồ. Trong quan hệ với người đối
diện, dù là vợ hay người tù cậy tới nhà viết câu đối, ông đều tỏ ra kẻ cả,
trịch thượng; thiếu hẳn cái tế nhị của người đàn ông lịch lãm, hiểu biết. Trong
khi đó, bà Ch… chỉ mới hai mươi, trạc tuổi Phan Khôi, là một thiếu phụ trẻ đẹp
với nước da trắng hồng và khuôn mặt trái xoan ưa nhìn. Ở bà có cái mềm mỏng,
nhũn nhặn lại có cả cái lịch sự, tế nhị của người phụ nữ có giáo dục; phục sức
kín đáo, sang trọng mà không diêm dúa, một hình ảnh hoàn toàn trái ngược với
chồng. Nhưng quan trọng hơn hết, bà là người rất tự tin và cũng rất tự chủ bởi
luôn ý thức được khả năng và vị thế của mình trong quan hệ với chồng. Còn Phan
Khôi mới hai mươi mốt tuổi, cũng cỡ tuổi bà Ch… Dẫu ở vị trí một người tù nhưng
ông vẫn rất đĩnh đạc, tự tin, không chút e dè, không xun xoe trước kẻ quyền
thế. Ông còn có biệt tài viết câu đối vừa nhanh vừa đẹp mà không phải bất cứ ai
ở tuổi ông lúc đó cũng có được. Dường như nơi ông tiềm ẩn một chút kiêu sa thầm
kín của một mẫu người mang trong mình tinh hoa mà tự biết vậy. Cho nên không
nói, ai cũng biết điều gì sẽ xảy ra…
Quả như dự đoán, chừng nửa tháng sau ngày Phan Khôi tới nhà viên
quan võ, tên Trưng, một tù nhân được biệt đãi tới ở hầu hạ tại nhà ông Ch… mang
cho Phan Khôi một cái gói. Ông ngờ vực, có ý đề phòng, định không nhận nhưng
rồi nghe tên Trưng phân bua, ông đã đổi ý. Hãy nghe ông kể lại việc này:
Tôi mở cái gói ra trước mắt
Trưng. Đố ai đoán biết được gói gì? Trời ơi! Gói trầu cau! Mười miếng trầu têm
kiểu Huế với mười miếng cau bửa dính, mỗi dây năm miếng chồng nanh sấu lên nhau
thêm mười mụn vỏ chay và mấy chùm hoa sói. Cái gì lạ! Thực tình tôi không hiểu,
hỏi Trưng:
- Của ai thế này?... Mà lại đưa
cho tôi?
- Của bà Ch…
Trưng vừa nói vừa cười ngỏn
ngoẻn.
- Đưa cho tôi? Tôi biết bà ấy
là ai?
- Ấy thế mới lạ. Thầy mới có
chuyện lạ, tôi đã nói.
Trưng nói câu ấy ra dáng đắc ý
lắm, và hắn bắt đầu làm như hắn là người có công ơn lắm với tôi.
Liền tay gói cái gói lại, tôi
trao trả Trưng, thêm rằng:
- Anh cầm lấy, tôi không biết.
Trưng xin tôi cứ nhận và kể đầu
đuôi:
- Lâu nay tôi phục dịch hằng
ngày trong nhà ông Ch… và tôi đã được tin cậy nên bà Ch… có đem tình riêng ngỏ
với tôi nhiều lần. Bà nói bà thấy thầy thì thương lắm, hôm nay gởi vật nhỏ mọn
làm tin, mong ngày khác thầy cho bà gặp mặt để nói chuyện...
Vậy là sau cái ngày tới viết câu đối, người thiếu nữ sớm trở
thành thiếu phụ này đã có tình ý với Phan Khôi. Cái gói trầu cau do tên Trưng
mang tới chứng cho việc bà đưa duyên làm tin. Rồi một hôm, nhân ông Ch… đi
vắng, bà Ch… sai lính tới nhà lao đưa Phan Khôi về nhà mình. Vẫn theo lời kể
của Phan Khôi trong tự truyện Tình trong tù:
Nhà có một mình bà Ch… Bà tiếp
tôi trong một phòng xép. Tôi ngồi trên cái chõng nhỏ, bà ngồi ghế bên cạnh, tay
đặt lên cái gáy trên cổ tôi, êm đềm nói:
- Chớ anh làm gì mà họ tù anh?
Tôi gắng mỉm cười nói bâng quơ
một câu:
- Thưa bà, bà còn thương hại
tôi nữa sao? Nội một cái (…) tôi dám đến đây cùng bà là cũng đủ lắm rồi.
Câu chuyện giữa họ vừa mới bắt đầu; những cử chỉ, lời nói âu
yếm, tình tứ của bà Ch… đang dở dang thì ông Ch… thình lình trở về do còn nửa
tiếng nữa các quan mới tới, ông không việc gì phải đến sớm để chầu chực. Nghe
thằng Trưng cấp báo, bà vội mở cửa cho Phan Khôi xuống bếp, dặn cứ đứng yên một
lúc sẽ hay. Nhưng khi nghe rõ tiếng nói ồ ồ của ông Ch. ..
ở nhà trên, ông đã mở cửa thoát ra ngõ, tìm gặp lại người lính rồi về thẳng nhà
lao. Vì việc này bà đã trách yêu ông: sao đã dặn ở đó một chút nữa mà lại bỏ về?
Từ bữa ấy, bẵng đi một dạo khá lâu, bà Ch… không tin tức gì cho
Phan Khôi và hai người cũng khó có dịp nào để gặp nhau. Ông Ch… giữ rịt vợ
chẳng khác nào thầy đội đề lao giữ Phan Khôi. Mỗi lần có việc quan, ông thường
đi rồi về ngay, không lần nào để bà ở nhà một mình quá ba tiếng. Thương nhớ
người yêu, bà Ch… nhiều lần sai thằng Trưng tới nhà lao gặp Phan Khôi, mong ông
kiếm cách đi ngang qua nhà bà một lần để bà trông thấy. Qua tháng tư năm sau,
ông Ch… dọn về ở trại lính, gần nhà lao. Từ đó bà Ch… và Phan Khôi năng trông
thấy nhau hơn nhưng vẫn không thể cùng nhau trò chuyện. Đến lúc thằng Trưng mãn
hạn tù, không còn hầu hạ ở nhà ông Ch… nữa thì tin tức giữa hai người cũng thưa
dần…
Rồi một ngày tháng chạp, Phan Khôi nhận được thư bà Ch. ..
Trong thư, bà nói nhân đi chữa lại đồ nữ trang, muốn gặp ông tại nhà người thợ
bạc. Lúc Phan Khôi đến, ở đó đã rất đông người, chỉ nhìn nhau cũng sợ tai tiếng
còn nói chi đến trò chuyện. Vậy mà ông Ch… chờ vợ lâu chưa thấy về, đã lù lù
dẫn xác tới. Vừa trông thấy cái sống mũi đỏ chờn vờn trước cửa, Phan Khôi đã
đảo ra ngõ sau, thành ra ông bà chẳng nói với nhau được lời nào. Về nhà
lao, cái câu dù yêu nhau mà không được gần nhau, thôi thì
sống để dạ, chết đem đi trong thư bà Ch… khiến ông suy nghĩ
mãi. Không ngờ đó là lần cuối ông được gặp bà. Bởi qua tháng giêng năm sau,
không biết từ đâu ra mà có tin bà Ch… lâm bệnh nặng, đưa về Huế điều trị được
mấy tháng thì qua đời. Cái tin bà Ch… đột ngột ra đi không khỏi làm Phan Khôi
hoài nghi, tiếc nuối, nhớ lại một chuyện tình thật đẹp đã qua đi trong khi ông
không phải là người làm nên tội lỗi!
Trên đây là câu chuyện tình giữa Phan Khôi và người vợ trẻ của
viên quan võ trông coi nhà lao được chính ông thuật lại trong tự truyện Tình trong tù. Đối chiếu với
mối tình trong Tình già, ta có thể khẳng định
mối tình trong bài thơ là của chính Phan Khôi. Bởi nó bắt đầu từ năm 1908, cho
tới lúc Tình già xuất hiện lần đầu
trên báo, trước là Tập văn mùa xuân của báo Đông Tây ở Hà Nội, sau là Phụ nữ tân văn tại Sài Gòn
cùng ra vào năm 1932 là vừa đúng hai mươi bốn năm. Con số hai mươi bốn trong
Hai mươi bốn năm xưa… mở đầu Tình già đúng là con số
xác định mà không phải là con số phiếm chỉ. Mối tình trong Tình trong tù giữa Phan
Khôi, một thanh niên vừa bị gia đình nhà gái thối hôn và bà Ch…, một thiếu phụ
trẻ, trong thực tế đầy ngang trái đã trải qua nhiều bất trắc, khiến cả hai
chẳng ai tin rồi sẽ kết quả. Chính Phan Khôi đã có lúc muốn buông xuôi nhưng bà
Ch… thì một mực níu kéo. Tâm trạng hoang mang, tuyệt vọng của cả hai đã được
ông ghi lại trong Tình già:
- Ôi đôi ta, tình thương nhau
thì vẫn nặng, mà lấy nhau hẳn đà không đặng
Để đến nỗi tình trước phụ sau,
chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau!
- Hay! Nói mới bạc làm sao chớ!
Buông nhau làm sao cho nỡ?
Thương được chừng nào hay chừng
nấy, chẳng qua ông Trời bắt đôi ta phải vậy!
Ta là nhân ngãi, đâu có phải vợ
chồng mà tính việc thủy chung?
Vậy là ở nửa trên bài thơ, Phan Khôi chỉ giữ vai trò một nhà
báo, ghi lại trung thành cuộc tình của chính mình. Vậy còn ở nửa sau bài thơ
thì sao? Bởi theo tin Phan Khôi nhận được thì chỉ sau một năm ông vào tù, bà
Ch… đã lâm bệnh nặng rồi qua đời. Nếu quả thế thì làm gì có chuyện Hai mươi bốn năm sau như trong bài thơ? Trong
trường hợp này, Phan Khôi đã tạm quên vai trò nhà báo để làm nhà thơ
với không chỉ hiện thực được tôn trọng như ta vốn biết mà còn thêm hư cấu,
tưởng tượng nữa. Và ông đích thị đã là nhà thơ với câu thơ thật hay kết thúc Tình già:
Hai mươi bốn năm sau, tình cờ
đất khách gặp nhau:
Đôi cái đầu đều bạc. Nếu chẳng
quen lung, đố có nhìn ra được!
Ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa
nhau đi rồi! Con mắt còn có đuôi.
Nhưng dù cho có cả tin cũng không ai tin ngay là bà Ch… đã đột
ngột qua đời nếu không phải là bà quyên sinh mà chỉ vì bệnh nặng. Bởi ai chẳng
biết ông Ch… cả ghen. Rất có thể cái tin bà Ch… qua đời là do ông tung ra nhằm
đánh lừa tình địch, tránh các cuộc gặp mặt có thể có về sau này giữa Phan Khôi
và vợ ông. Nếu cái tin bà Ch… qua đời là thất thiệt mà sự thực là bà vẫn còn
sống, còn yêu Phan Khôi và hai người đã gặp lại nhau sau hai mươi bốn năm xa
cách như trong bài thơ thì Phan Khôi lúc này đã trở lại là nhà báo, tôn trọng
sự thật như vốn có, cho dù ông đã viết được câu cuối của bài thơ mà những người
chê thơ Phan Khôi trước nay cũng phải thừa nhận là hay.
Vậy câu hỏi Có bao nhiêu sự thật trong bài thơ Tình già
của Phan Khôi? giờ tôi đã có thể trả lời như sau: Nếu cuộc tái
ngộ ở cuối bài thơ Tình già là cuộc tái ngộ
có thực trong cuộc đời Phan Khôi thì toàn bộ Tình già là sự thật, và
khi đó Phan Khôi là nhà báo. Nhưng cũng cuộc tái ngộ ấy nếu chỉ có trong Tình già mà không có trong
cuộc đời thực của Phan Khôi thì một nửa trước Tình già là sự thật còn
nửa sau là hư cấu, tưởng tượng và khi đó Phan Khôi là nhà thơ. Cho dù có thế đi
nữa, tôi vẫn tin ở Phan Khôi cái chất nhà văn, nhà báo nhiều hơn chất nhà thơ.
Vì vậy tôi luôn gọi ông là nhà văn - nhà báo Phan Khôi mà không là nhà thơ Phan
Khôi như có người đã gọi. Mặc dù tôi vẫn biết, khi sáng tác bằng các thể thơ
dân tộc hay thơ luật, ông đã để lại cho hậu thế những bài thơ hay hoặc rất hay!
Phan Khôi
Tình già (*) Hai mươi bốn năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa, Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ, hai cái đầu xanh, kề nhau than thở: -“Ôi đôi ta, tình thương nhau thì vẫn nặng, mà lấy nhau hẳn đà không đặng, “Để đến nỗi tình trước phụ sau, chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau!” -“Hay! Nói mới bạc làm sao chớ! Buông nhau làm sao cho nỡ? “Thương được chừng nào hay chừng nấy, chẳng qua ông Trời bắt đôi ta phải vậy! Ta là nhân ngãi, đâu có phải vợ chồng mà tính việc thủy chung?”
……………………………………
Hai mươi bốn năm sau, tình cờ đất khách gặp nhau: Đôi cái đầu đều bạc. Nếu chẳng quen lung, đố có nhìn ra được! Ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi! Con mắt còn có đuôi. (*) Phan Nam Sinh sưu tầm, theo đúng bản in lần đầu trên “Phụ nữ tân văn” số 122 ra ngày 10/3/1932. |
Phan Nam Sinh
Nguồn: Văn
nghệ Thái Nguyên
Nhận xét