5037. Ông thông gia
Ông thông gia
Truyện
ngắn Vũ Thư Hiên
PNTB: Truyện ngắn quá hay. Mình đọc như nuốt lấy từng chữ.
Tôi sung sướng đằm mình
trong nước mát. Trên đầu tôi, chung quanh tôi, nắng chói loà. Tôi bập bềnh
trôi. Có tiếng sáo diều văng vẳng. Đang say sưa ngụp lặn bỗng tôi bị một cái gì
va vào làm tôi vùng vẫy, sặc sụa.
-
Cậu ngủ say quá thể! – tôi nghe tiếng người, tiếng cô Lương – Dậy đi, cậu.
Cô
Lương lột tấm chăn tôi trùm kín đầu. Tôi giằng lại không được. Thế là tỉnh hẳn.
-
Có việc gì mà cô đến sớm thế? – tôi càu nhàu.
Tôi
tiếc giấc mơ. Tiếc lắm. Không dễ gì gặp được một giấc mơ như thế. Với tôi, dòng
sông quê hương mà tôi vừa được thoải mái trầm mình trong đó giờ đây xa lơ xa
lắc. Nó gần như mất hẳn trong trí nhớ. Giấc mơ như một món quà bất ngờ. Món quà
tan biến chỉ vì cái nhà cô Lương thổ tả kia. ôi nghe tiếng dép lẹp kẹp đi về
phía bếp, tiếng nước đổ vào ấm, tiếng bật công tắc.
- Sớm gì mà sớm. – tiếng
cô Lương nói - Trưa rồi.
Tôi vẫn còn chưa hết bực
mình. Kim đồng hồ trên bàn chập nhau ở con số 12. Trưa thật rồi.
Cô
Lương chậm rãi pha trà. Giữa chúng tôi, hơi trà ngào ngạt và ấm áp bốc trên
miệng chén. Ở khoảng cách gần, tôi thấy cô già sọm – hai mắt lõm sâu, má hóp,
da mặt đã có màu bao xi măng. Mấy chiếc răng cửa hơi đưa ra, cái duyên của cô
ngày trước, giờ xuống màu, với những khe rộng hơn trước. Giọng cô không còn
trong, không còn cao, nó mệt mỏi, khàn khàn. Từ nốt ruồi ở quai hàm bên phải
chui ra một sợi râu bạc.
- Cửa cũng không thèm
đóng. – cô chép miệng, trách – Em chỉ việc đẩy vào. Có ngày trộm vét sạch. Thật
đấy. Cậu biết hôm nay ngày gì không?
- Ngày gì?
- Ngày Ông Táo lên chầu
giời rồi đấy.
- Ờ…
Lại một năm trôi qua. Cô
Lương là cuốn lịch sống của tôi. Không có cô nhắc, tôi sẽ không biết mình đang
ở đâu trong dòng chảy vô hình ấy. Đã nhiều năm, mỗi khi phải lấy áo ấm ra mặc,
thấy tuyết rơi, tôi biết là mùa đông đến; phải lôi cái quạt máy trong đống đồ
xếp xó ra cho nó chạy, tôi biết đã vào hè.
- Em mang ít đồ cúng
sang cho cậu.
Trên nóc tủ tôi thấy có
mâm ngũ quả, xôi lạc, gà luộc. Và nén nhang mới bén.
- Cảm ơn cô.
Cô cười không tươi.
- Đàng nào em chả cúng.
Cậu thì cái gì cũng phiên phiến, phiên phiến. Tết nhất phải có chút gì gọi là
hương khói để nhớ đến tổ tiên, ông bà. Tết này cậu sang em, ăn Tết bên em nhá?
- Ờ…
- Hôm nay em sang đây –
cô nói, giọng ngập ngừng - là có việc phiền cậu…
Tôi đặt chén trà xuống,
nhìn cô, chờ đợi. Ở đây, chỉ tôi là người thường nhờ vả cô. Chứ cô chẳng bao
giờ nhờ vả tôi.
- Việc gì vậy?
Cô ngần ngừ.
- Em muốn phiền cậu đi Berlin với
em một chuyến.
Tôi ngạc nhiên. Từ khi
dọn về đây ở gần cô, tôi chưa thấy cô đi đâu.
- Đi Berlin? Làm gì chứ?
Cô nhoẻn cười, ngượng
ngập:
- Hỏi vợ cho cháu Hiếu.
* * *
Tôi và cô Lương có một
tình bạn dài nửa thế kỷ.
Tình bạn của chúng tôi
bắt đầu bằng một món ăn. Cô Lương không phải người bình thường. Ở đất thủ đô,
cô là người nổi tiếng. Cô nổi tiếng không phải vì cái gì to tát, mà nổi tiếng
nhờ món bún mọc. Tôi sẽ không tả nó ngon như thế nào. Không ai có thể tả được
cái sự ngon. Chuyện ấy là của riêng cái lưỡi. Cứ phải ăn mới biết. Chỉ có thể
nói gọn một câu: bún mọc là món độc quyền của cô Lương trong toàn thành phố. Về
món này không ai cạnh tranh được với cô. Quanh gánh bún cô Lương, khách ngồi
chật vỉa hè đợi đến lượt. Đông thế mà cô tài nhớ lắm ai đến trước, ai đến sau,
lần lượt múc cho từng người suất bún nóng hổi, thơm phức, nước dùng ngọt lịm,
húp bỏng miệng. Những viên mọc của cô, được chế tạo cách nào không biết, nêm
nếm thế nào không biết, mềm và đàn hồi, cắn ngập chân răng, như thể chúng không
phải được nặn bằng thịt lợn tầm thường của trần thế.
Đến đây tôi phải nói
ngay rằng giữa hai chúng tôi không hề có chuyện ong bướm. Đơn giản vì cô Lương
không phải là một cô. Cô không phải đàn bà.
Trở thành khách quen của
gánh bún mọc, tôi gọi anh chàng Lương này bằng cô, như cách mọi người gọi. Có
người còn gọi là cô đồng Lương. Gọi thế không đúng - Lương không phải cô đồng.
Không hầu đồng, không am miếu, không hương khói, đàn địch, không con công (con
nhang?) đệ tử, sao gọi thế được. Các nhà khoa học viết khá nhiều về hiện tượng
ái nam ái nữ, tôi có đọc, nhưng không hài lòng. Thế giới “ái” rất đa dạng, rất
phức tạp, theo tôi quan sát. Nó không dễ giải thích. Đơn giản hoá nó, sơ lược
hoá nó, trong cái nhìn bất biến, đinh ninh, miêu tả qua lăng kính duy vật cho
ra vẻ khoa học là không được. Lấy cô Lương làm ví dụ. Đực rựa, có vợ có con hẳn
hoi. Chị vợ, tôi đã gặp, xinh gái, đàn bà trăm phần trăm, mẹ của hai đứa con
giống bố như đúc. Một gia đình như mọi gia đình. Cái khác là trong gia đình này
anh chồng từ tấm bé đã thích trang điểm theo cách nữ – ở nhà không biết thế
nào, chứ ra đường là phải thoa một chút phấn hồng lên má, quệt một đường son
nhẹ lên môi. Lại còn đeo nịt vú nữa chứ (nó hiện rõ qua lần áo phin nõn), ai
cũng thấy. Nói ỏn ẻn, đi nhún nhẩy, hai tay phẩy phẩy bên hông, như thể đàn bà.
Thế mới thành cô Lương. Nhưng “cô” không có một nhân tình đàn ông nào, tuyệt
không. Chưa ai bắt gặp “cô” cặp kè với một người phái nam. Vì thế, nói rằng
trong con người cô Lương có thứ tình dục đồng giới, bệnh hoạn, theo cách nhìn của
thế hệ tôi, là nói bậy.
Tôi là người không háo
lên án ai, lên án cái gì. Tôi chỉ háo ăn ngon. Qua một lần nếm thử đã đủ để tôi
trở thành khách quen của gánh bún mọc cô Lương. Thấy tôi, khi nào cô cũng đon
đả:
- Kìa, anh giai! – rồi
khi múc bát mọc rồi, cô tươi cười hỏi, không thể nói rằng cô hỏi lấy lệ - Anh
giai thêm hành trần nhá? Ớt tươi chứ? Anh giai sành một cây, em biết tính ông
anh mà, ăn mọc chẳng chịu tra tương ớt đâu. Ngần này đủ chưa?
Rồi lại sợ mất lòng một
ông khách nào đó nghiện tương ớt, cô bả lả:
- Nói vậy chứ bách nhân
bách tính, có người thiếu tương ớt là nhạt mồm nhạt miệng, ăn mất ngon, có phải
không ạ?
Hoặc:
- Anh giai nom có vẻ
mệt, em nhúng hai trứng nhá? Anh giai bổ dưỡng đi cho chị em vui.
Tôi đỏ mặt vì những lời
chớt nhả ấy. Khách tủm tỉm nhận xét: múc cho tôi, trong muôi của cô bao giờ
cũng có nhiều mọc hơn cho người khác, một chút thôi, nhưng hơn. Họ đùa cợt bảo:
là do tôi đẹp trai. Tôi soi gương chẳng thấy mình đẹp trai tẹo nào, có lẽ tại
hai chúng tôi có duyên tiền kiếp.
Đùng một cái, không thấy
cô Lương dọn hàng. Không ai biết cô biến đi đâu.
Khách hàng nghiện bún
mọc buổi sáng nhìn cái vỉa hè quen thuộc từ lâu đông nghịt giờ đây trống trơn,
chưng hửng dắt xe đi. Hỏi người chủ ngôi nhà trước gánh bún mọc của cô Lương,
một ông già cao lêu đêu, ông ta lắc đầu: không biết. Cô Lương đến xin đặt nhờ
gánh bún thì ông cho, ông không khoảnh. Ông cho cô ngồi nhờ ở hàng hiên nhà ông
vô điều kiện. Để cảm ơn ông, sáng nào cô cũng làm một bát mọc tú hụ bưng vào
cho ông. Khi khách quá đông, ngồi chật cả lối ra vào, ông chưa kịp trách thì cô
Lương đã bẽn lẽn xin gửi ông ít tiền hàng tháng, coi như thuê chỗ.
- Cô ấy cứ giúi vào tay,
bắt tôi phải nhận. Chứ tôi cũng không đòi. – ông nói như phân bua – Thời buổi
này giúp nhau được chút gì thì giúp, là cái nghĩa đồng bào. Vỉa hè nào phải của
tôi. Nhưng cô ấy là người biết điều. Thấy làm phiền người nhà đi ra đi vào, cô
ấy ngại. Tôi không biết cô ấy dọn đi đâu, thật vậy.
Hoá ra trong những ngày
ấy cô Lương ở tù. Với người Việt ta, ở tù không phải sự lạ. Thiên hạ gặp nhau
thấy ngờ ngợ thì không hỏi quê quán, họ hàng mà hỏi: mình gặp nhau ở trại nào
nhỉ?
* * *
Tôi gặp lại cô Lương ở
một nơi mà cả hai đều không ngờ: trại tị nạn Hồng Kông.
- Giời ạ, cậu?! – trông
thấy tôi, cô Lương túm lấy, mừng quýnh. Rồi trợn mắt lên, thì thào - Cậu, sao
lại ở đây?
- Thì có gì lạ?
- Cậu là cán bộ kia mà.
Cô Lương thay đổi đến
khó nhận ra: son phấn không, áo quần luộm thuộm, nhếch nhác, trên mép là một
hàng ria nham nhở. Bây giờ tôi không còn là khách hàng nữa, cô gọi tôi bằng
“cậu”. Tiếng “cậu” của ta có nhiều nghĩa, là cách bạn bè thân mật gọi nhau,
cách con gọi cha, vợ gọi chồng, cháu gọi em ruột của mẹ. Khi dùng với người
ngoài nó lại là cách xưng hô tỏ sự tôn trọng đối với người có dòng dõi hoặc
thuộc vai vế xã hội trên mình.
- Cán bộ thì đã sao? –
tôi ôm chầm lấy cô - Đến đây lâu chưa?
- Hai năm rồi. Còn cậu?
- Mới.
- Em tưởng chỉ có dân
chúng em khổ quá mới phải ra đi thôi - cô Lương cụp mắt nhìn xuống bàn chân đầy
bụi di di trên mặt đất – Ai tự dưng bỏ nhà bỏ cửa, bỏ quê hương bản quán? Báu
lắm đấy, cái đồng đất xứ người… Mà tại sao cậu lại phải đi?
- Chuyện dài – tôi đáp -
Lúc nào rảnh, tôi kể. Còn cô, đang đắt khách sao cô lại dẹp hàng, rồi ở đây?
- Cũng là chuyện dài,
cậu ơi.
Chuyện dài ấy là thế này:
Trước, hai mẹ con cô
Lương là xã viên hợp tác xã thu mua đồ phế thải, nôm na là hợp tác xã đồng nát.
Dân ta vốn thích oai, gọi vống lên cho sướng, chứ xã viên của cái hợp tác xã
này vẫn là những bà đồng nát ngày trước. Đòn gánh trên vai, hai đầu hai thúng,
họ lang thang khắp phố phường mua đủ thứ đồ vứt đi: sắt vụn, nồi thủng, mâm
bẹp, giấy lộn, tóc rối…, đem bán lại cho các vựa. Để được phép làm việc ấy,
tháng tháng họ phải đóng một khoản tiền cho hợp tác xã, coi như mua sự hợp
pháp. Mẹ cô Lương là con gái Ước Lễ, Hà Đông, làng này nổi danh cả nước về nghề
giò chả. Chồng chết sớm, bà mở hàng ăn kiếm sống, nuôi con. Có nghiệp tổ, miễn
chăm làm thì không giàu được cũng đủ sống. Mở hàng mới được ít lâu thì đùng một
cái, nhà nước ra lệnh cấm tiệt mọi nghề dính dáng tới lương thực, tức là tuốt
tuột mọi thứ - gạo, ngô, khoai, sắn và bất cứ thứ gì có chứa tinh bột Vốn liếng
thế là tong. Cũng có vài hàng phở, hàng cháo lòng đánh liều, bán chui ở trong
nhà. Bà không có cái gan ấy. Để được bán chui phải chạy vạy, phải đi đêm với đủ
loại quan nha, chức sắc: cán bộ phòng thuế, cán bộ quản lý thị trường, công an
khu vực… mới yên. Suy đi tính lại, chỉ có cái nghề mạt hạng, bị khinh khi, là
nghề đồng nát, người ta mới không nhòm đến.
Cuộc sống vất vả làm sức
khoẻ bà suy sụp, rồi mất. Cô Lương còn lại một mình. Cô bỏ gánh giấy vụn, đi
làm thuê cho một quán phở chui. Cho đến khi ông nhà nước thấy cuộc sống sa sút
quá, kinh tế xuống dốc quá, thành phố tiêu điều quá, mới rộng lượng ngoảnh mặt
đi cho những người buôn thúng bán bưng muốn làm gì thì làm, cô Lương mới dám
nghĩ tới việc vay mượn họ hàng sắm sanh gánh bún mọc cho mình. Rồi lấy vợ, đẻ
con.
Ai ngờ một gánh bún mà
làm nên cơ đồ.
Cô Lương trở nên giàu
có. Nói giàu là nói trong khái niệm tương đối. Giàu ở đây là có nhiều tiền hơn
người quanh mình thôi, chứ chẳng phải thiên ức vạn tải gì. Có đồng ra đồng vào,
cô cũng chẳng sung sướng. Thời bấy giờ, giàu cũng là cái tội cái nợ. Người dư
dả đồng tiền ngẩn ngơ không biết dùng nó làm gì. Sắm sửa thì hàng xóm biết, gửi
tiết kiệm nhiều tiền thì nhà nước biết. Phải tìm mọi cách giấu cho kín cái
giàu, không được hở cho bất cứ ai. Đã trở thành thói tục người này theo dõi
người kia, nhà này nhòm ngó nhà khác, không trừ cả thân thuộc. Thành thử cô
Lương phải hết sức giấu giếm cái sự giàu của cô, như các cụ nói, như mèo giấu
cứt. Nhưng chẳng lẽ cứ tích tiền để đấy trong lúc nó mất giá hàng ngày?
Nhờ ông anh họ mách
nước, cô trở thành người “chơi” đồ cổ. Ông này rất sành đồ cổ, nhất là trong
lĩnh vực gốm sứ, tôi có nghe tiếng. Ngay Viện bảo tàng Lịch sử cũng phải mời
ông cố vấn mỗi khi phải xác định niên đại một hiện vật mà nhận định của các
chuyên gia không thống nhất.. Người như thế lẽ ra phải ở trong biên chế, nhưng
ông không được nhận vì lý lịch – cha ông có thời làm thông phán trong phủ Toàn
quyền.
Ông khuyên cô:
- Chú cứ nghe tôi: để
tiền vào đồ cổ là an toàn nhất hạng. Nó là thứ không thiu không thối, càng để
lâu càng có giá. Chú quen nghề đồng nát, biết nhiều nhà, cứ lân la dò hỏi, biết
đâu đấy, có khi vớ được của quý cũng nên. Gặp đồ cổ chú cứ gọi tôi, tôi biết
cái gì quý, cái gì không quý, trả bao nhiêu là vừa. Nhà nước mua lại đồ cổ của
dân bằng giá rẻ mạt, như cướp không, chẳng ai muốn bán. Dân đào được đồ cổ cũng
bị thu mua, chỉ được tí tiền gọi là bồi dưỡng. Mình trả cao hơn nhà nước là
người ta bán. Quen rồi, người nọ mách người kia, chú sẽ mua được khối thứ. Mua
rồi cứ để đấy.
Cô hỏi ông anh:
- Mua để đấy phỏng có
ích gì?
- Xì, chú không biết
nhìn xa.
- Là thế nào ạ?
Ông nói chắc nịch:
– Thể nào rồi cũng có
một ngày khác bây giờ. Lúc ấy chú cứ gọi là ngồi trên đống của.
Cô Lương nghe lời ông
anh. Cô làm quen với giới buôn đồ cổ “chui”. Cô dò hỏi, cô lùng sục, gặp đồ
quý, cô mua. Dần dà, nhờ sự dạy dỗ của ông anh, cô cũng trở thành một chuyên
gia đáng nể. Cầm cái bát, cái đĩa hay lọ độc bình lên, ước lượng nặng nhẹ để
biết xương, xem men, xem dáng, cô có thể nói ngay niên đại của món đồ, thuộc
đời nào Tống, Đường, Minh, Thanh hay Lý, Trần. Còn hơn chuyên gia, cô sở hữu
một số đồ độc nhất vô nhị. Các cụ nói: cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra,
đồ cổ thì thứ nào cũng lớn hơn kim hết. Thế rồi một ngày kia có người chào cô
mấy cái đĩa men ngọc đời Lý, men rạn, cực hiếm. Cô mua ngay. Cũng ngay đấy công
an ập vào khám để tìm những hiện vật Viện bảo tàng vừa mất trộm. Người ta tìm
ra tức khắc - chính là mấy cái đĩa ấy. Để “làm rõ” lý lịch những đồ cổ khác,
người ta thu tất tần tật các thứ cô tích cóp được trong mấy năm trời. Cô Lương
bị bắt vì tội “tiêu thụ của gian”. Cô ở tù gần một năm, không xét xử, gọi là
giam cứu.
- Rồi họ xác minh cô vô
tội?
- Làm gì có chuyện ấy?!
– lần đầu tiên tôi thấy cô cười gằn – Họ bảo em nhận tội đi rồi họ tha, không
nhận thì cứ ở đấy.
- Rồi cô nhận?
- Chứ sao.
Ra tù, cô trắng tay. Với
tấm giấy tạm tha trong túi. Cô vợ xinh gái đi theo một tay cán bộ phòng thuế.
Có thể gây dựng lại cuộc đời bằng gánh bún mọc, như trước kia, nhưng cô không
còn sức, nói cho đúng, sau khi ở tù ra cô chán mọi sự, không còn ý chí, không
còn ham muốn. Nghe người ta mách, cô dắt hai con xuống Hải Phòng tìm đường đi
xứ khác. Cũng lại do ông anh họ chuyên gia đồ cổ:
- Chú đi đi, chú đã bị
bỏ tù một lần, coi như có vết, không tiền án cũng tiền sự, ở đây khó sống lắm.
Bây giờ người ta đi ầm ầm. Tôi xin lỗi chú. – ông quệt nước mắt, sụt sùi - Cũng
là tại cái thằng tôi chú mới sa vào vòng tù tội…
Chuyện vượt biên xưa như
trái đất, khỏi kể. Sóng gió, đói khát, cạn nhiên liệu, chìm tàu… vân vân. Tất
cả những cái đó xảy ra với bất kỳ ai. Người có số may mắn hiếm lắm.
* * *
Tôi bằng lòng đi Berlin
với cô Lương. Cô nói không có tôi đi cùng, cô sẽ lúng túng, không biết ứng xử
thế nào với nhà gái cho phải phép.
Ở nhà cô, một chàng trai
cao, to, để ria mép, trân trân nhìn tôi.
- Cháu Hiếu đấy – cô
Lương nói, vẻ tự hào pha ngượng nghịu.
- Chào cháu – tôi chào
nó, biết rằng nó sẽ không chào tôi trước – Bác không nhận ra cháu đấy.
- Gutten tag … – nhìn
tôi, nó nói – Bác khoẻ?
Cô Lương liếc tôi, cái
nhìn biết lỗi.
- Khi chúng mình gặp lại
nhau, cháu mới bằng ngần này. - tôi cười xuề xoà với cô Lượng, rồi giơ bàn tay
úp sấp làm hiệu chỉ chiều cao của nó hồi ấy – Từng ấy năm, cháu làm sao nhớ
được tôi là ai.
Nghe cô kể thì thằng
Hiếu sáng dạ, học trung cấp cơ khí, bây giờ đã là trưởng ca hay trưởng kíp gì
đó trong một nhà máy, công việc tốt, lương cao.
- Ba, con ra tiệm nét
một lát – nó bước ra cửa – Con đi chếch meo (Check mail) . Ba với bác chuẩn bị
sẵn sàng nhé!
Tôi nhớ lúc còn nhỏ, hai
đứa con cô Lương không gọi cô bằng “ba”. “Ba” hiện đại hơn, sang hơn “bố”. Đi
ngang tôi, thằng Hiếu vẫy tay:
- Chuýt ! (Tschuess,
chào tạm biệt ở Đức)
Thì ra cái Audi đen bóng
đậu ngoài phố, lối vào nhà, là của nó.
- Bọn trẻ giờ thế cả.
Không biết lễ phép là gì – cô Lương thở dài – Sang đây chúng nó thành Tây cả.
Nó vừa nói cái gì vậy, cậu?
Tôi giải thích. Cô Lương
không biết computer là cái gì.
- Cậu đừng chấp – cô
Lương bảo tôi – Thế là toi cái Tết. Mình lên đấy rồi về chắc gì kịp ăn Tết. Em
mời cậu Tết này ăn Tết với em, mời thật tình, mà hoá ra mời rơi. Cậu vào đây mà
xem: em đã lo sẵn hết cả: măng lưỡi lợn nhá, chân giò nhá, lá giong gói bánh
nhá, thịt xay làm mọc nhá… tất tần tật. Em nghĩ lại rồi, em đi một mình cũng
được, bắt tội cậu đi với em những ngày này, em ái ngại quá.
- Vẽ, đi là đi. Tôi nói
rồi, với tôi ngày Tết chẳng có gì quan trọng. Cô đừng nghĩ ngợi.
- Thằng Hiếu lấy Tây hay
ta đấy?
- Ta, cậu ạ. May thế!
Cô chị thằng Hiếu lấy
Tây. Bố vợ với con rể chỉ gút tần tác (Guten Tag, chào buổi sáng), gút tần nác
(Gute Nacht, chúc ngủ ngon)với chuýt là hết chuyện. Cô Lương rầu lắm. Cô còn
rầu hơn nữa là đến bẹo má thằng cháu ngoại một cái cũng không được, sờ cái
giống của nó cũng bị cấm – Tây nó không thích. Nó sợ cô làm bẩn con nó.
Cô phân trần:
- Nhà gái đòi phải có
chạm ngõ, ăn hỏi, rồi mới cho cưới. Lôi thôi quá, cậu ơi. Lần trước gọi điện
về, thằng Hiếu đã giục. Em bảo: để thư thư, Tết ra đi cũng được.
Đùng một cái, ông bố vợ
nó bị đâm xe.
- Nặng không?
- Nặng, mới khổ. Bà mẹ
vợ bảo thằng Hiếu phải tức tốc về đón em lên để chính thức có nhời với người
ta. Nếu chẳng may ông ấy có mệnh hệ nào họ còn cho cưới chạy tang.
- Hiểu rồi. Cô biết nhà
gái chứ?
- Thằng Hiếu có nói gì
trước với em đâu.
Mặt cô Lương chảy dài.
Khi cô buồn, hay là có điều suy nghĩ, cô bước những bước chậm chạp, cái lưng gù
xuống.
Làng chúng tôi ở miền Nam nước
Đức. Làng nhỏ nhưng sạch sẽ, ngăn nắp, an bình. Nói chung, làng quê ở vùng này
đều thế: gọn gàng, tiện lợi, bé tí, mà cái gì cũng có – bưu điện,cửa hàng dược
phẩm, bệnh viện, trạm xăng, siêu thị. Thằng Hiếu vui vì tôi nhận lời đi cùng bố
nó, nhà trai như thế là đủ hoành tráng. Nhưng nó chê ỏng chê eo nơi ở của chúng
tôi:
-
Cháu đã bảo ba cháu dọn lên Berlin ,
ông ấy không chịu, kêu ở thành phố lớn ồn. Ra đến nước ngoài mà còn chui rúc xó
xỉnh. Ở cái chốn nhà quê thế này, bác tính, vui thú nỗi gì cơ chứ? – nó nói với
tôi trên con đường làng hẹp – Sorry bác, mấy ông khốt giống nhau như đúc, sợ
thay đổi như sợ cọp…
Cô
Lương im lặng. Tôi ậm ừ. Tôi cảm thấy mếch lòng. Cứ như thể bố nó không chịu đi
là do tôi, ông ấy thích ở đây là vì ở đây có tôi.
-
Được cái ông bố vợ cháu khá. – thằng Hiếu hồn nhiên tiếp tục - Khác hẳn bố
cháu. Còn nhanh nhẹn lắm, cứ như thanh niên í. Hồi mới sang, ông í đứng đường
bán thuốc lá lậu, rồi cầm đầu hẳn một băng, kiếm khẳm. Tậu được nhà. Nhà hẳn
hoi, chứ không phải căn hộ. Thay xe như thay áo. Mẹ vợ cháu cũng đảm, làm chủ
một resto (Restaurant) trên năm chục bàn. Ba cháu mà như người ta thì đâu đến
nỗi như bây giờ. Mèng ra cũng có một cái imbiss . Tội nghiệp, không biết liệu
ông bố vợ cháu có tai qua nạn khỏi không?
Không
giống nhiều thanh niên khác, Hiếu vẫn nói thạo tiếng mẹ đẻ, chỉ thỉnh thoảng nó
mới chêm vào vài tiếng Đức quen miệng, vài tiếng Anh thời thượng. Trên xe, nó
nói với tôi nhiều hơn nói với bố.
-
Này, anh Hiếu, thế ông ấy đã làm… hừm, gọi là cái gì nhỉ, à, cái di chúc chưa
đấy? – giữa câu chuyện, cô Lương đang lim dim ở ghế sau, nhổm lên nói.
- Ông ấy khoẻ như vâm, -
thằng Hiếu nhún vai - nghĩ gì đến di chúc.
- Vạn nhất ông ấy không
qua khỏi mà không có di chúc để lại thì, hì hì…, vợ chồng anh dễ bị thiệt lắm.
Trong câu nói của cô
Lương có âm sắc mai mỉa. Nhưng con trai cô không nhận thấy.
- Ông ấy có gì để lại?
Khôn như rận, ba ơi, cái gì cũng tên vợ hết. Ông ấy sợ. Bọn Đức khiếp lắm, trốn
thuế cả chục năm rồi chúng nó vẫn moi ra đấy.
Chúng tôi đến Berlin vào
buổi tối.
Bà thông gia phốp pháp,
son phấn tưng bừng ngay cả khi đang điều khiển nhà hàng. Nhác trông cũng thấy
sự không môn đăng hộ đối giữa nhà trai với nhà gái.
- Chúng em không oẻ hoẹ
tương tàu đâu, thưa hai bác – bà nói, giọng ngọt lịm – Nhưng mà, thưa hai bác,
gì thì gì mình vẫn cứ phải giữ lề thói cha ông. Con nhà gia giáo chữ lễ phải
coi trọng, là nhất, có đúng thế không ạ? Em dễ tính, cứ phiên phiến, thế nào
cũng xong, chứ ông nhà em cổ lắm, nhất nhất cứ phải theo phép xưa mới chịu.
Phật tử đấy ạ. Chăm đi chùa lắm. Mà chùa thì xa, có phải gần đâu. Tối nào cũng
ngồi thiền, tụng kinh niệm Phật đấy ạ.
- Ông bà nghĩ thế là chí
phải. – cô Lương chắp tay lễ phép - Chúng tôi nhất nhất xin theo. Ngặt vì mình
ở xứ người, có nhiều cái không thể được như ở nhà, chúng tôi có điều gì thất
thố xin ông bà bỏ qua cho.
Cô Lương nói trơn tru
trước sự ngạc nhiên của tôi. Thường ngày cô có cái giọng ấy, có õng ẹo cũng là
chất phác, mộc mạc.
- Con Thuỷ đâu rồi? – bà
cao giọng gọi vào trong bếp – Ra đây.
Một cô gái trẻ, vận quần
áo đúng mốt, có hở một chút rốn, nhanh nhẹn chạy ra. Mắt thằng Hiếu sáng lên.
Hai đứa nhìn nhau lúng liếng. Con bé này rồi cũng đảm chẳng kém mẹ, tôi nhận
xét.
- Con chào hai bác đi.
Bây giờ thế đấy, hai đứa chúng nó quen nhau từ lúc nào em đâu biết, chúng nó
đâu có báo cáo báo cầy gì với bố mẹ. Thôi thì không bằng lòng cũng phải bằng
lòng, bác không kén dâu, chúng em cũng chẳng kén rể, mà có kén cũng chẳng được,
thời bây giờ chúng nó kén nhau chẳng khiến ta, em nói thế có phải không ạ? Là
cái duyên cái số cả. Nhà trai đến, có nhời với chúng em là chúng em vui rồi. –
bà rơm rớm nước mắt – Vui đến, buồn cũng đến. Năm nay nhà em gặp hạn. Ông nhà
em lái xe cẩn thận lắm, mà vẫn bị. Tổ cha cái thằng Đức lợn ấy, nó phóng bạt
mạng, mới ra nông nỗi. Thổi bong bóng thằng ấy thấy có hơi rượu, nhưng cảnh sát
bảo còn dưới mức cho phép. Chúng nó bênh nhau mà, bọn Đức thế cả, ai chả biết.
May, nhà em đã mua bảo hiểm toàn phần…
Cô Lương đến lúc ấy mới
dám lí nhí hỏi câu cô muốn hỏi.
- Thưa, bệnh tình ông
nhà… thế nào rồi?
Bà thông gia vui vẻ:
- May, tưởng nặng, hoá
không phải. Không phải mổ xẻ gì hết, chỉ mấy mũi khâu, băng bó xong nằm tĩnh
dưỡng ít hôm là về. Nhà em hiếu khách lắm, ông ấy mà gặp hai bác thì chuyện dứt
không ra đâu. Mấy hôm nữa, khoẻ lại rồi, nhà em sẽ đưa hai bác đi thăm các danh
lam thắng cảnh ở đây. Còn bây giờ em xin mời hai bác dùng bữa rồi về nghỉ ở nhà
em. Được cái nhà không đến nỗi chật, em đã chuẩn bị, hai bác mỗi người mỗi
phòng ạ.
- Cảm ơn bà, bà chu đáo
quá. Bác cháu đây (cô Lương chỉ tôi) trước cũng ở Berlin, bác cháu đã gọi điện
đặt phòng ở một khách sạn quen rồi - cô nói dối ráo hoảnh, làm tôi một lần nữa
ngạc nhiên – Chúng tôi nhận phòng xong là ăn tối luôn ở đấy cho tiện rồi mới
lại yết kiến bác…
* * *
Khi chúng tôi đến phòng
bệnh thì thấy một bác sĩ Đức đang ở trong đó, đang đọc bệnh án. Nhác thấy người
bệnh qua cánh cửa khép hờ, cô Lương lùi phắt lại như bị điện giật, nắm chặt lấy
tay tôi.
- Ông sao vậy? – tôi ghé
sát vào tai cô Lương, thì thào.
Cô Lương xua xua tay:
Không, không sao.
Mắt vẫn không rời khe
cửa, mặt cô Lương đờ ra, xám ngoét. Cô lôi tôi khỏi chỗ.
- Thằng Hiếu đâu rồi?
- Tôi không biết. Nó vừa
đây mà.
Thì ra thằng Hiếu dừng
lại ở ngoài cổng hút thuốc. Cô Lương lật đật chạy đến, túm lấy nó, tôi hối hả
theo sau. Đứng trước mặt con, cô dằn giọng:
- Hiếu, bố vợ mày tên là
gì?
Nó trố mắt:
- Sao, có chuyện gì mà
ba hỏi thế? Sao mặt ba tái đi thế?
- Tao hỏi: bố vợ mày tên
gì?
Thằng Hiếu ngớ ra.
- Ông ấy tên là Khởi,
ông Khởi. Có chuyện gì thế, ba?
- Đúng, đúng là nó.
Cô Lương lẩm bẩm rồi cúi
gập xuống như một thân cây bị đốn. Tôi vội đỡ cô. Thằng Hiếu lại càng hốt hoảng:
- Ba, ba sao vậy? Bác có
biết ba cháu bị sao không?
Tôi lắc đầu. Cô Lương
phẩy phẩy tay:
- Đi về. Đi về.
- Sao đến đây rồi lại đi
về, ba?
- Đi về là đi về.
Tôi đoán là có chuyện
nghiêm trọng, liên quan tới người bệnh đang nằm trong kia. Tôi kéo cô vào quán
nước gần nhất. Dọc đường cô như người mất hồn, mặc tôi muốn đưa cô đi đâu thì
đi.
Đặt cô ngồi xuống ghế,
tôi gọi mấy ly bia. Cô run run cầm cái ly lên, lẳng lặng uống cạn. Đợi cô uống
xong, rồi ghé sát vào tai cô thì thào:
- Ông biết ông ta?
Cô Lương nhìn chằm chằm
vào khoảng không, môi mím chặt:
- Chính là nó. Chính là
nó đấy, ông ạ.
Khi có người thứ ba,
chúng tôi không xung hô với nhau như thường ngày nữa, mà “ông, tôi”. Cái đó đã
trở thành quy ước, nó gắn chặt thêm tình thân giữa chúng tôi, như giữa hai kẻ
đồng mưu.
- Mà nó là ai kia chứ? –
tôi gặng.
Cô hít vào một hơi rồi
thở ra hộc ra, như muốn trút hết không khí khỏi lồng ngực:
- Là thằng làm đời tôi
tan nát ấy. Nó. Chính là nó. Có đến chết tôi cũng không quên mặt nó, cái thẳng
khốn nạn ấy. Chính là cái thằng giả dạng đem bán cho tôi mấy cái đĩa cổ, rồi
làm hiệu cho đồng bọn ùa vào khám nhà để tống tôi vào tù đấy.
Một giọt nước mắt xúc
động lăn trên gò má, cô lấy mu bàn tay quệt đi. Rồi ngẩng lên, nhìn vào mặt con:
- Thằng Hiếu nghe đây!
Thằng Hiếu ngẩn ngơ
trước thái độ không bình thường của bố. Bình thường bố gọi nó bằng anh, một
điều anh Hiếu, hai điều anh Hiếu, với giọng trịnh trọng của ông bố đã có tuổi
nói với đứa con đã thành nhân, không bao giờ bố gọi nó bằng thằng. Trước mặt nó
giờ đây không phải là ông bố hiền lành, ông bố đụt, mà nó đã quen thấy, mà nó
hằng coi thường. Trước mặt nó là một người đàn ông dữ dằn đang nổi cơn điên.
Nó bất giác khoanh hai
tay lại, cử chỉ từ lâu nó không làm.
- Dạ.
- Nghe tao nói đây: mày
sẽ không lấy cái con nhà ấy, hiểu không? – cô nhìn thẳng vào mắt nó, dằn từng
tiếng, như bắt nó phải khắc trong trí – Con ấy có là tiên cũng không lấy nữa,
không được. Thằng Khởi là kẻ thù của gia đình ta. Chính nó đã làm cho gia đình
ta điêu đứng. Hôm nay có súng trong tay thì tao đã bắn chết nó…
Thằng Hiếu im lặng ngồi
phịch xuống ghế. Hai tay ôm đầu, nó ảo não nhìn bố.
Vẫn giọng chắc nịch, cô
Lương không nói, mà tuyên bố:
- Thà chết, chứ tao
không thông gia với cái giống ấy.
Tôi ôm lấy vai cô:
- Việc gì thì cũng phải
bình tĩnh, từ từ suy nghĩ, trước hết là phải bình tĩnh, không nên nóng nảy. Bây
giờ ta về khách sạn. Rồi tính tiếp.
* * *
Ngày hôm đó kẻ vất vả
nhất, khốn khổ nhất, là thằng Hiếu. Nó lái xe chạy cuồng giữa ba đỉnh của một
hình tam giác - khách sạn, nhà thương, nhà hàng. Nghe lời tôi, nó nói dối bố mẹ
vợ rằng lễ vấn danh theo kế hoạch như thế là phải hoãn - bố nó bất thình lình
trúng gió, nằm liệt, không đi lại, không làm gì nổi. Ông bố không nói gì, nhưng
bà mẹ và cô con gái cuống lên, nằng nặc đòi đến thăm. Nó phải ra sức cản, viện
lẽ chừng nào bố nó chưa được định bệnh thì không thể và không nên đến, biết đâu
đấy, chưa chừng bố nó nhiễm chứng cúm châu Á ngay trước khi lên đường đi Berlin
cũng nên, bệnh ấy vừa xuất hiện, người bệnh cần được cách ly. Lời nói dối có
hiệu quả - ở Đức người ta sợ cúm châu Á còn hơn sợ dịch tả.
Tôi không nói với cô
Lương đó là kế hoãn binh của tôi. Tôi nói ra, cô sẽ nổi khùng. Cả ngày, cô
chẳng nói chẳng rằng, chỉ nằm ngửa nhìn lên trần.
Đêm đến, thấy cô có vẻ
đã nguôi ngoai, tôi mới lựa lời khuyên nhủ:
- Cô nóng quá. Sự đời
rắc rối, nó đã xoay ra thế rồi, sức mình không cải được, thì đành chấp nhận,
chứ biết làm sao?
Cô Lương trợn mắt:
- Cậu nói thế là ý thế
nào? Là em phải quên đi, phải chịu làm thông gia với thằng khốn kiếp ấy? Cậu
muốn em muối mặt đến gặp nó để xin con Thuỷ cho thằng Hiếu? – cô Lương tung
chăn ngồi dậy, ôm đầu rền rĩ - Không, cậu ơi, không, em không thể nhìn mặt nó.
Em không thể làm thông gia với nó. Không là không.
- Thì tôi có bảo cô phải
đến gặp nó đâu. Tôi chỉ muốn nói là hai trẻ đã trót yêu nhau rồi, thì mình phải
nghĩ cách sao cho vẹn cả mọi đường…
- Cách gì?
- Thì phải nghĩ đã chứ.
Sao cho chúng nó không đau khổ.
- Chúng nó đau khổ thì
mặc chúng nó.
Cô Lương quay đi, chấm
dứt câu chuyện.
Tôi vắt óc chẳng nghĩ ra
cách nào hay ho. Khuyên được nạn nhân hoà giải với kẻ thù là chuyện vá trời.
Gần sáng, tỉnh dậy, thấy
cô Lương vẫn thức, tôi pha trà, rồi bảo:
-Thế này: tôi đưa cô ra
ga đi tàu về trước, tôi ở lại. Mình sẽ nói rằng cô đã được chuyển về bệnh viện
địa phương tiếp tục điều trị.
Cô lắc đầu:
- Việc gì phải nói dối?
Như thế cầm bằng em sợ nó, em không dám giáp mặt nó. Em không sợ nó. Em căm thù
nó.
Tôi thở dài:
- Từ từ đã nào. Có phải
cô nhờ tôi đi để làm việc hỏi vợ cho thằng Hiếu không nào? Trông thằng Hiếu mà
thương. Nó sợ cô đến nỗi không dám vào đây, mỗi lần tôi mở cửa lại thấy nó lấp
ló ở đấy.
Cô Lương ngước mắt lên,
hỏi:
- Cậu nghĩ sao? Nó sợ
hay nó ghét mặt bố nó?
Tôi quả quyết:
- Nó sợ đấy. Lúc cô
thiếp đi, tôi ra ngoài thì gặp nó. Tôi đã kể cho nó nghe hết sự tình, tức là
tất cả mọi chuyện mà tôi biết. Nó khóc. Nó thương bố lắm.
Mặt cô Lương dãn ra ra
khi nghe tôi nói thế.
- Nhưng mà em dù sao thì
cũng không thể thông gia với cái giống chó má ấy được, cậu ơi. - cô lại ôm đầu
- Không đời nào.
- Thì tôi đứng ra mà.
Không phải cô. Tôi cũng không để cô muối mặt gặp thằng ấy. Coi như tôi là bố
nuôi thằng Hiếu, cô không đến được thì tôi thay mặt nhà trai đến chạm ngõ. Còn
sau này ra sao hạ hồi phân giải.
Nghe đến đấy cô Lương
quay mặt vào tường, im lặng.
* * *
Nằm trên giường bệnh là
một người khoẻ mạnh. Nụ cười hồ hởi nở trên gương mặt phương phi, ông ta đưa
tay cho tôi bắt. Nước da ngăm ngăm đen làm tôi hình dung ra ông trong bộ cảnh
phục và câu nói cửa miệng của dân Hà Nội chỉ đám công an: “chân chì, da thiết
bì, mũ bình thiên”.
Thằng Hiếu cho biết: khi
tai nạn xảy ra, ông bố vợ nó có bị thương, có chảy nhiều máu thật, nhưng hoàn
toàn tỉnh táo. Mới lấy máu bôi lem nhem khắp mặt mũi, rồi giả bộ ngất. Tưởng
thế là đủ để cảnh sát làm một biên bản thuận lợi cho sự bắt đền, nào ngờ thấy
máu me bê bết, họ vội gọi xe cấp cứu chở phắt đi bệnh viện. Mà ở bệnh viện thì
tình trạng thương tật của ông thế nào người ta biết ngay. Sở dĩ ông còn được
nằm nán lại mấy ngày là vì ông vờ bị choáng, thỉnh thoảng lại ngất đi, tính
kiếm thêm ít điểm cho sự bồi thường về sau.
Nó dẫn tôi đến, rồi đứng
ngoài, để hai người lớn nói chuyện.
- Tôi trông ông quen
quen. – ông ta vui vẻ nói.
- Tôi cũng vậy. Tôi cũng
có cảm giác chúng ta đã gặp nhau, nhưng ở đâu thì không nhớ ra. – tôi nói cho
có chuyện.
- Già rồi là hay quên
lắm, tôi cũng không nhớ ra.
Tôi cố lấy giọng trịnh
trọng:
– Chắc cháu Hiếu đã thưa
với ông: tôi là cha nuôi của cháu. Bố cháu ngã bệnh thời khí, nhất thời không
đến được, nên tôi mạn phép được thay mặt nhà trai, trước hết để vấn an ông, sau
là có lời xin ông bà cho cháu Thuỷ làm dâu…
Ông bố vợ thằng Hiếu
cười hì hì:
- Biết rồi, biết rồi.
Lại bà nhà tôi đây, bà ấy chúa hay vẽ chuyện. Cũng là phú quý sinh lễ nghĩa
thôi. – rồi hạ giọng, thân mật - Chứ hồi tôi với bà ấy lấy nhau ấy mà, lễ nghĩa
quái gì đâu, chẳng chạm mặt, cũng chẳng ăn hỏi. A lê hấp, cưới. Mà cưới tập thể
cơ đấy, ông ạ. Nhoáng nhoàng, nhoáng nhoàng, buồn cười lắm: chủ toạ buổi lễ chưa
nói dứt câu thì cả đám cô dâu chú rể đã xông vào xơi kẹo bánh ào ào như tằm ăn
rỗi, rồi ào ào kéo nhau đi tuốt…
Giọng nói của ông ta gợi
nhớ đến một cái gì quen quen. Cả gương mặt nữa. Tôi đã thấy nó ở đâu nhỉ?
- Tôi là người hiện đại.
– ông ta tiếp tục vui vẻ - Lễ nghĩa là cái gì? Che mắt thế gian thôi.
Cưới là cái gì? Là để
lên giường có giấy phép, hì hì, có sự thừa nhận chính thức của nhà nước, để
không bị ghép vào tội hủ hoá, có đúng thế không nào? Ông trạc tuổi tôi, ông còn
nhớ người ta trị cái tội ấy nghiêm khắc thế nào. Kinh lắm. Lũ trẻ bây giờ chúng
nó măng phú hết, chúng nó đếch cần lễ nghĩa gì ráo…
- Quả có thế.
- Ở bên Tây này khỏi
nói, dưng mà ở trong nước cũng thế, mới lạ. Gọi là sống thử, chưa cưới cũng ở
chung, vui ra phết…
- Dù sao thì…
- Ông muốn nói: cứ phải
theo thủ tục của ông bà để lại mới tốt chứ gì? Ờ, thì cũng tốt, cũng tốt thôi.
Thừa còn hơn thiếu, ít nhất thì để cho bà nhà tôi sướng, làm như thế, tức là đủ
thủ tục thì bà ấy sướng lắm đấy…
- Dạ.
- Ông thấy cần làm gì cứ
làm, tôi không phản đối. Mà này…
- Ông bảo sao?
Ông ta suồng sã nháy mắt
với tôi:
- Có cái hủ tục ấy anh
em mình mới có dịp gặp lại nhau chứ.
Thế là thế nào? Trong
một thoáng tôi sực nhớ ra: phải rồi, trước mặt tôi, người đang nằm trên giường
kia chính là tên công an đã hành tôi nhiều đêm trong cuộc hỏi cung kéo dài bất
tận.
Chuyện là thế này. Tôi
có bà cô ruột ở Sài Gòn. Qua họ hàng vào thăm bà biết tôi từng bị bắt đi cải
tạo, bà thương tôi, khi sửa soạn vượt biên bà muốn đưa tôi cùng. Trước đó tôi
còn không biết mặt bà. Cô cháu tôi không gặp may. Tên chủ tàu phản thùng. Nó
thu vàng rồi báo công an. Cả tàu bị bắt. Tên Khởi này không phải là người hỏi
cung chính, hắn là phụ tá.
- Tôi nhớ ra rồi. Ông
là… Điều tôi không ngờ là chúng ta lại tình cờ gặp nhau ở đây. – tôi cười chua
chát – Ông nhận ra tôi?
- Chứ sao! – hắn cười to
– Trí nhớ công an mà. Chúng tôi không quên cái gì. Chúng tôi được huấn luyện để
không quên.
- Tài thật. Bằng ấy năm
rồi mà ông vẫn nhận ra ngay.
- Còn hơn thế nữa kia.
Tôi biết tại sao lại là ông, chứ không phải bố thằng Hiếu, đến.
- ???
Hắn nói chậm, rõ từng
tiếng:
- Ông đến là vì cô đồng
Lương không muốn giáp mặt tôi.
Tôi ngạc nhiên. Phải nói
là sửng sốt mới đúng. Chúng tôi chỉ thập thò ở cửa phòng bệnh của hắn chưa đến
một phút.
- Quỷ quái, ông đã nhìn
thấy? Ông nhận ra ông ấy?
Vẻ đắc thắng, hắn hơi
nhổm người lên, cười vào mặt tôi:
- Sao không? Chỉ thoáng
thấy ông ấy ở ngoài cửa là tôi nhận ra liền. Tôi biết: ông ấy còn căm tôi lắm.
Ông khác, ông quên rồi.
Tôi lắc đầu, cố giữ vẻ
bình thản:
- Không, tôi không quên.
- Ông quên. Bằng chứng
là ông không nhận ra tôi khi bước vào đây. Ngay cả khi ngồi trước mặt tôi, ông
cũng không nhận ra. Ông chỉ nhận ra khi tôi nhắc.
- Tôi vốn không có tài
nhớ mặt người. – tôi lạnh lùng – Nhưng sự việc thì nhớ. Có nhiều sự việc con
người không thể quên.
- Thế là tốt. Nhớ nhiều
quá chẳng hay gì.
Khởi cười khẩy, cái cười
khẩy rất đểu, làm tôi nhớ thêm một chi tiết trong cuộc hỏi cung.
Đêm ấy hắn cũng cười như
thế khi hỏi tôi: “Bà cô cậu bảo nếu tớ thả hai cô cháu cậu ra, bà ấy xin chết
bốn cây. Liệu hai cô cháu cậu có định cho tớ leo cây không đấy?”
Tôi nhìn vào mặt hắn:
- Tôi có điều không
hiểu: tại sao ông lại ở đây?
- Dớ dẩn. Ông đặt một
câu hỏi không nên hỏi tí nào. Đơn giản là trả lời: cũng như các ông thôi.
- Chúng tôi khác, ông
khác. Ông ở trong đám người có quyền đè đầu cưỡi cổ kẻ khác. Ông đi làm gì?
Khởi vẫn không mất vẻ
tươi cười:
- Tội nghiệp, ông âm
lịch quá. Con người ta sinh ra đã biết lựa chọn rồi, đã biết so sánh rồi, so
sánh để lựa chọn cho đúng. Cái tốt hơn đặt bên cái tốt kém, thì cái tốt kém là
cái xấu. Tôi chọn cái tốt. Nếu không thể chọn cái tốt nhất. Ở trong nước cũng
thế, ở đây cũng thế.
Tôi khen hắn, thật lòng:
- Ông thật tinh quái.
- Chúng tôi được dạy dỗ
để trở thành tinh quái mà.– hắn cười, vừa độ lượng vừa thoả mãn – Ông cứ
xem các nhà lãnh đạo quốc gia của chúng ta bây giờ xem – có ông nào không giàu
đâu. Tôi không làm được như họ, bởi vì tôi không có cái thế của họ. Thì tôi
phải đi tìm chỗ khác. Có thế thôi. Người như tôi nhiều. Người như ông với cô
Lương hiếm. Ông không nên tự hào về sự hiếm ấy. Đó là sự lạc hậu.
Tôi mím môi, thở dài qua
mũi.
Hắn nắm tay tôi:
- Quên, tôi chưa hỏi
ông: cô Lương, à ông Lương, sang đây không làm ăn gì à? Không mở cái quán nào?
- Không. Ông ấy đi làm
nhà máy. Rồi về hưu.
Hắn cũng thở dài:
- Dại. Dại quá. Có tài
nấu nướng như ông ấy, mở một cái imbiss cũng khẳm tiền. Có tiền là có điều kiện
cho con ăn học đến nơi đến chốn.
- Hai cháu cũng được học
hành tử tế đấy chứ, cũng nên người đấy chứ. Tôi không thấy có gì đáng phàn nàn.
Hắn đặt bàn tay béo tốt,
gần như mũm mĩm, lên tay tôi, một lần nữa:
- Thế này nhé! Chuyện
thằng Hiếu với con Thuỷ coi như xong. Ông Lương không đến cũng được. Kể cả ông
nữa. Cứ coi ông là người đại diện nhà giai đi. Không sao. Không phải chúng ta
là người quyết định. Làm gì còn có sự gả bán nữa. Thời này không phải thời
chúng ta.
- Dù sao thì chúng tôi
cũng phải có lời xin cháu làm dâu đàng chúng tôi. Mình cứ giữ cho đủ lễ.
Hắn nhếch mép cười buồn.
Rồi bảo:
- Con người ta tham lắm,
ông ạ. Nói thật với ông, không muốn có một thằng rể chỉ tốt nghiệp trung cấp.
Tôi muốn một thằng rể bét ra cũng phải kỹ sư, tiến sĩ. Hoặc một ông chủ công ty
lớn. Hai đứa chúng nó đặt tôi vào thế kẹt. Biết làm thế nào? Thôi thì đành chịu
vậy.
Khi tôi kiếu từ, hắn còn
nói theo:
- Ông yên trí, tôi sẽ
nhào nặn lại thằng Hiếu. Nó chịu khó, chăm làm, cũng có chút chí tiến thủ,
không như bố nó. Cái nó thiếu mà tôi không cho nó được là nó không có cao vọng.
* * *
Câu chuyện tầm phào này
đến đấy là kết thúc. Như mọi câu chuyện tầm phào khác, nếu nhìn bằng cái nhìn
chăm chú thể nào ta cũng tìm thấy trong đó một cái gì đáng để ta suy ngẫm, cho
dù sau đó chẳng đến được một kết luận rõ ràng.
Tôi không tường thuật
cho cô Lương nghe cuộc đối thoại giữa tôi với thằng Khởi. Nó không chỉ là kẻ
thù của riêng cô Lương. Nó còn là kẻ thù của tôi nữa. Điều này tôi giấu, không
nói ra. Nếu tôi nói, có thể cô Lương sẽ cảm thấy lòng căm thù của cô được san
sẻ. Nhưng, khốn nạn thay, không phải vì được san sẻ mà hận thù nơi cô nhẹ đi.
Có khi nó còn nặng thêm, vì cô thấy nó có lý hơn.
Chỉ có thời gian mới có
khả năng xoá đi hận thù. Mà thời gian đủ để xoá là bao lâu thì không ai biết,
không ai có thể chỉ ra.
Ba năm liền, hai ông
thông gia không giáp mặt nhau, không gửi cho nhau một lời hỏi thăm.
Năm thứ tư, tôi bắt gặp
hai kẻ thù một thời đi cùng nhau ở quảng trường Brandenburg .
Giữa hai người là đứa cháu mới chập chững biết đi.
Nó tin cậy giao hai bàn
tay bé tí cho hai ông nó dắt
(FB. Vũ Thư Hiên)
Nhận xét