5035. Nợ, trả nợ và khủng hoảng
Nợ, trả nợ và khủng hoảng
09/02/2017 14:27 GMT+7
![]() |
Nhà máy xơ sợi Đình Vũ đã ngừng hoạt động từ giữa năm 2015, bị âm vốn chủ sở hữu 528 tỉ đồng (tại thời điểm cuối năm 2015), chưa kể nợ phải trả gần 7.000 tỉ đồng. |
Nguyễn
Quang A: Anh
Vũ Quang Việt, một người có thẩm quyền về thống kê kinh tế, đã làm Vụ trưởng
thống kê của Liên Hiệp quốc, đã giúp Việt Nam đầu các năm 1990 và giúp nhiều
nước khác từ Trung Quốc, Philippines, Myanmar, nhiều nước châu Phi về lĩnh vực
này. Ông rất thẳng thắn và rất ôn hòa, tuy nhà nước không còn mời ông về giúp
từ lâu, song ông vẫn tư vấn công không bằng các bài viết có chất lượng như thế
này (nên chính phủ càng không muốn mời; nay ông Phúc nói rất mạnh xem ông Phúc
có mời anh Việt không và đấy có thể là một chỉ báo xem ông có thực lòng hay có
thực quyền gì không).
LTS: Bộ Tài chính đang lấy ý kiến đóng góp cho dự
thảo Luật Quản lý nợ công. Trên cơ sở đó, TBKTSG xin giới thiệu bài viết của
TS. Vũ Quang Việt như một góp ý cho dự thảo này.
Nợ công của Việt Nam là vấn đề tranh cãi từ lâu. Nợ
của Chính phủ và của doanh nghiệp nhà nước (DNNN) chủ yếu dựa vào tín dụng ngân
hàng và phát hành trái phiếu. Cả hai loại nợ này có lẽ cho đến nay ít dựa vào
đánh giá khả năng trả nợ mà dựa vào kế hoạch chỉ tiêu (hay lệnh) của cơ quan
chủ quản. Nợ chính phủ đòi hỏi tăng thuế để trả nợ. Nợ doanh nghiệp đòi hỏi
doanh nghiệp phải giảm đầu tư vì áp lực trả nợ. Cả hai đều kìm hãm tăng trưởng
trong nền kinh tế.
Một minh chứng điển hình là vấn đề nợ của Nhật
Bản trong vài chục năm qua đã làm kinh tế Nhật tiếp tục trì trệ. Nếu không thế,
phát hành tiền và tăng tín dụng để tài trợ sẽ gây lạm phát.
Sau
một thời gian kìm hãm, nợ công ở Việt Nam có vẻ tăng mạnh, nhất là trong
năm 2015 (xem bảng 3, dựa vào số liệu chính thức).
Thông
tin trình bày ở dưới bao gồm nợ của Chính phủ (bao gồm cả nợ doanh nghiệp do
Chính phủ bảo lãnh) - mà Bộ Tài chính gọi là nợ công và nợ của DNNN. Số liệu
tới năm 2015 dựa vào các nguồn chính thức. Số liệu năm 2016 chủ yếu dựa vào ước
tính của tác giả.
Khu
vực công (public sector) theo định nghĩa của Hệ thống Tài khoản quốc gia của
Liên hiệp quốc 2008 bao gồm cả Chính phủ và DNNN nên có thể coi nợ công là tổng
của nợ chính phủ và nợ của DNNN. Thông tin này là cần thiết, dù Việt Nam vẫn
chỉ chú ý đến nợ chính phủ (được gọi là nợ công), nhưng nếu DNNN nào phá sản
thì việc trả nợ là do Chính phủ chịu trách nhiệm, dù Chính phủ tuyên bố không
có trách nhiệm và nếu giả thiết cho phá sản, đất và tài sản công sẽ bị tịch
biên và thuộc về chủ nợ. Vì thế khi phân tích về nợ công, không thể bỏ qua nợ
của DNNN. Dù không đồng ý về định nghĩa, cách tốt nhất là Bộ Tài chính nên công
bố cả nợ của DNNN vào Bản tin nợ công để các nhà phân tích tùy nghi sử dụng.
Số
liệu tin cậy được cho thấy nợ chính phủ năm 2015 là 115 tỉ đô la Mỹ, bằng 59,5%
GDP và ước tính nợ chính phủ năm 2016 lên tới ít nhất 131 tỉ đô la Mỹ, bằng
63,9% GDP. Nợ chính phủ tăng quá nhanh, ở mức gần 35% năm 2015.
Nợ
của DNNN ở đây cho thấy toàn cảnh khoảng 3.200 doanh nghiệp với số nợ theo điều
tra của TCTK năm 2014 là 4,9 triệu tỉ đồng (231 tỉ đô la Mỹ), gấp nhiều lần con
số 1,5 triệu tỉ đồng mà Bộ Tài chính đưa ra chỉ cho một số tập đoàn và công ty
lớn. Ước tính thêm cho thấy năm 2016, nợ của DNNN là 324 tỉ đô la Mỹ, bằng 158%
GDP.
Như
vậy, cộng cả nợ chính phủ và nợ DNNN sau khi trừ đi phần Chính phủ bảo lãnh
trùng lặp, tổng số nợ năm 2016 là 431 tỉ đô la Mỹ, bằng 210% GDP.
Với
tỷ lệ nợ lớn như trên, khó lòng nền kinh tế phát triển mạnh. Không những thế
thời gian qua, do tăng tín dụng, tăng nợ, lạm phát cuối năm 2016 đã lên đến
4,7% và có khả năng tăng cao hơn trong năm 2017 (xem bảng 4). Điều dễ hiểu là
tín dụng tăng mạnh. Lạm phát tăng như trên sẽ đẩy lãi suất lên, có thể tới ít
nhất 8%/ năm vào năm 2017, trái ngược với tình hình lạm phát và lãi suất giảm
cho đến cuối năm 2015 và những tháng đầu năm 2016. Nợ cao, lãi suất cao, khả
năng trả nợ sẽ giảm. Kinh tế khó lòng mà phát triển mạnh, nếu không nói là có
thể bị rơi vào khủng hoảng.
Vấn
đề nợ, đặc biệt là nợ chính phủ ngày càng tăng là do chi ngân sách ngày càng
tăng, đưa đến thiếu hụt ngân sách lớn, khoảng 5-6% GDP một năm. Thông tin trong
quá khứ cho thấy thường tỷ lệ chi ngân sách vượt nghị quyết của Quốc hội 30-40%
(xem bài trên TBKTSG số ra ngày 29-10-2015), mà tới hai năm sau mới biết. Như
thế, khả năng kiểm soát chi gần như không có.
Cách
tốt nhất để kiềm chế trong một vài năm tới là đóng băng chi, và đóng băng tăng
biên chế (dài lâu hay tạm thời), chỉ cho phép thay thế người về hưu ở vị trí
cần thiết. Nếu làm được thế, thu ngân sách tăng, ít nhất theo tốc độ tăng
trưởng kinh tế (6%), thiếu hụt ngân sách sẽ bị xóa bỏ nhanh chóng. Chỉ có thể
kiểm soát chi tiêu nếu thống kê ngân sách cụ thể, cập nhật và theo đúng chuẩn
quốc tế.
TS. Vũ Quang Việt/Thời báo Kinh tế Sài Gòn
Nhận xét