5012. Sương xuân và hoa đào
Sương xuân và hoa đào
Nhà văn Vũ Thư Hiên
PNTB: TS Nguyễn Xuân Diện đánh giá đây là một tùy bút đặc sắc. Còn tôi, cho rằng nó đặc sắc bởi lời văn của ông nhẹ nhàng, dung dị, không đánh bóng ngôn từ. Vũ Thư Hiên tả cảm xúc có lúc tưởng như hơi quá một tí mà vẫn thật, vẫn tự nhiên, không sáo mòn, nên câu chữ của ông rung động lòng người.
-----------------------------------------
Tôi bao giờ cũng hình
dung Tết gắn liền với đất Bắc, nơi đi trước mùa xuân phải có một mùa đông. Mùa
đông ở nơi này mỗi năm mỗi khác, nó có thể lạnh nhiều hay lạnh ít, độ ẩm có thể
cao hay thấp, nhưng nhất thiết không thể không có gió bấc và mưa phùn. Không
khí se lạnh làm cho con người phải co ro một chút, rùng mình một chút, chính là
sự chuẩn bị không thể nào thiếu được để cho ta bước vào một cái mốc thời gian
mới đối với mỗi người mỗi nhà. Thành thử ở Sài Gòn trùng vào những dịp xuân
sang tôi vẫn không thấy lòng mình rung động cảm giác về cái Tết ruột rà, cái
Tết đích thực. Xin các bạn Sài Gòn tha lỗi cho tôi nếu trong những lời của tôi
có gì làm các bạn phật ý, nhưng mãi tới nay, sau nhiều Tết Sài Gòn, tôi vẫn
chưa quen được với một ngày đầu năm phải phơi đầu dưới cái nắng chói chang và
trầm mình trong cái nóng hầm hập, làm cho con người phải tìm đến với trái dưa
hấu mọng nước trước khi ngồi vào mâm cỗ Tết có đủ thịt mỡ và dưa hành, bánh
chưng và giò thủ. Ở mỗi nhà vẫn nghi ngút trầm hương thật đấy, ngoài đường xác
pháo toàn hồng vẫn tràn ngập lối đi thật đấy, nhưng cái Tết dường như vẫn còn
lạc bước nẻo nào, nó chưa hẳn là Tết, chưa đủ là Tết. Đành phải viện hai câu
thơ mà nhiều người vốn không yêu thơ cũng thuộc, để giải thích nỗi nhớ về đất
Bắc, để biện hộ cho cái cảm xúc không phải đạo của mình trước đất Sài Gòn cũng
đã trở thành không kém thân thương:
Tự thuở mang gươm đi mở
cõi,
Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long.
Chuyện đó chẳng có gì lạ.
Người Việt phương Nam nào
mà chẳng có một cái quê còn nhớ hay đã quên, có biết hay không biết, nằm ở phía
ngoài kia.
Người xông nhà chúng tôi
rất sớm, khi còn tối đất, sáng mồng Một năm Đinh Tỵ (1977), là nhà văn Nguyễn
Tuân.
Người xông nhà, theo sự
mê tín từ xưa, là một nhân vật rất quan trọng đối với vận mệnh gia chủ. Tùy
theo người xông nhà là ai, năm đó ngôi nhà sẽ có nhiều may mắn hoặc xui xẻo.
Những người cẩn thận thường phải tính chuyện mời ai đến xông nhà mình từ lâu
trước khi Tết đến. Người xông nhà nhất thiết phải là người đang làm ăn phát
đạt, con cháu đầy đàn mà hòa thuận, hoặc một bậc lão niên tài cao đức trọng,
chuyện này còn tùy thuộc ở kỳ vọng của gia chủ mong muốn điều gì.
Bác Nguyễn, nổi tiếng về
tính kỳ quặc của mình, chắc hẳn chọn nhà tôi để đến xông đất đầu năm vì biết
chắc chúng tôi không kiêng kỵ, nếu năm đó có chuyện gì không hay xảy đến cho
chúng tôi thì ông cũng không bị trách. Kể ra được (hay bị) một nhà văn đến xông
nhà thì, theo lệ thường, chẳng hay ho gì. Xét về danh giá, theo truyền thống
hiếu học và trọng kẻ sĩ của đất Bắc, nhà văn hẳn là bậc đáng trọng rồi. Nhưng
xét về mặt tài lộc thì bất kỳ nhà văn nào cũng nằm ở hạng bét trong thứ bậc
giàu nghèo. Tất nhiên, không kể những quan chức bổng nhiều lộc lắm, lại rảnh
việc, cũng rửng mỡ xông vào làng văn mà viết sách in thơ.
Bố tôi rất quý Nguyễn
Tuân. Ông coi Nguyễn Tuân hơn là một người bạn thời thanh niên. Trong cái nhìn
của ông, Nguyễn Tuân là một trong những đại diện cuối cùng cho lớp kẻ sĩ Bắc hà
mỗi ngày một hiếm, những người cho tới lúc ấy còn biết coi tiền bạc như của phù
vân, không cúi đầu vâng dạ trước quyền lực. Riêng đặc điểm sau Nguyễn Tuân phủ
nhận. Ông luôn phô rằng mình biết sợ, hơn thế, chẳng những ông sợ vừa mà còn sợ
lắm lắm. Cái sự phô ấy làm cho người ta lầm tưởng rằng ông không sợ.
Ông đến xông nhà chúng
tôi trong chiếc áo choàng màu cứt ngựa. Bỏ nó ra, bên trong vẫn là bộ áo cánh
đen thường nhật. Trời rét ngọt, ông mặc thêm áo len và quàng khăn, đội mũ
bê-rê. Bộ áo cánh đen là cách diện của ông, của Nguyễn Tuân, bao giờ cũng phải
khác người. Tôi mở cửa đón ông, hơi ngỡ ngàng một chút. Tôi không chờ đợi một
người xông nhà không phải người trong gia tộc, những năm ấy người ngoài ít dám
tới nhà chúng tôi lắm. Lại càng không chờ đợi Nguyễn Tuân với sự sợ hãi của
ông. Nhưng không ai đi hỏi người đến xông nhà rằng tại sao ông đến. Với bất cứ
người xông nhà nào ta chỉ có thể vồn vã chào đón và đem bánh pháo đầu tiên của
ngày mồng Một ra đốt. Nguyễn Tuân đoán ra câu hỏi câm lặng của tôi. Ông ý nhị
nói:
- Nói thực, mình đến đây
sớm vì chẳng biết đi đâu. Mà lại rất thèm đi dạo một lúc trước khi bình minh ló
rạng trong cái ngày đầu năm này. Lang thang mãi rồi mình thấy mình đến đây.
Không sao chứ?
Bố tôi nghe léo xéo bước
ra, tươi cười ôm lấy bạn dìu vào nhà. Ông sai tôi rót rượu, châm hỏa lò than để
nướng mấy con mực. Bố tôi biết Nguyễn Tuân không ưa đồ ngọt, khay mứt trên bàn
chắc chắn sẽ không được ông đụng đến. Ông ngồi xuống chiếu, xếp bằng tròn, giơ
đôi tay cóng sưởi trên hỏa lò. Lửa than làm vầng trán hói của ông bóng lên
trong căn phòng nhỏ của bố tôi. Bố tôi thường tiếp bạn thân trong căn phòng ấy
chứ không phải ngoài phòng khách. Hai người bạn già thân tình nhìn vào mắt
nhau, chạm ly trong im lặng. Cả Nguyễn Tuân, cả bố tôi đều không thích những
lời ồn ào.
- Ngon tuyệt - NguyễnTuân
nhắp vài nhắp rượu trong vắt với vẻ thích thú rồi ngửa cổ cạn ly.
- Làng Vân chính hiệu đấy!
Bố tôi nói, nét hài lòng
hiện lên mặt. Ông thích được chiều bạn và khi bạn vui, ông còn sướng hơn chính
ông được vui.
- Tuyệt!
- Mình phải đặt loại đặc
biệt cho cái Tết đoàn viên này.
Đúng vậy, đây là cái Tết
đầu tiên gia đình tôi đủ mặt. Không thiếu ai. Những Tết trước gia đình tôi tan
tác. Tôi ở trong tù. Cha tôi bị lưu đầy ở Nam Định.
- Hơn hẳn anh Trương Xá.
Vào đến cổ họng là biết ngay! - Nguyễn Tuân xác nhận.
Phận con cháu, tôi được
phép ngồi bên cạnh các cụ làm chân điếu đóm. Tôi thích nghe bác Nguyễn nói
chuyện. Trong câu chuyện của ông bao giờ cũng có một cái gì mới, một cái gì ngồ
ngộ, độc đáo mà không người nào khác có. Về đời sống cũng như trong văn chương,
ông là người uyên bác.
Tính về họ hàng theo đàng
mẹ, tôi phải gọi ông bằng bác. Nhưng ông rỉ tai tôi, một lần ở chỗ đông người:
"Họ xa rồi, cùng cánh văn chương với nhau, gọi thế nó mất đi cái sự bình
đẳng, gia trưởng lắm". Tuy miệng vâng dạ, tôi vẫn kính cẩn gọi bác xưng
cháu với ông. Mẹ tôi là người nghiêm khắc trong chuyện xưng hô lắm.
Chuyện vãn một lát, lại
chuyện làng văn làng họa, ai mới viết cái gì hay, bức hoạ cuối cùng của ai độc
đáo, là đề tài yêu thích của ông, Nguyễn Tuân hỉ hả ra về. Ông nói ông còn phải
đến chơi với Văn Cao ("bà
Băng bà ấy kiêng. Mình phải đến muộn muộn một tý!"), đến Nguyễn Sáng ("Tết
nhất mà nó có một mình, buồn muốn chết!")
Ra khỏi cổng, Nguyễn Tuân
dừng lại hồi lâu trên hè, nhìn phố Hai Bà Trưng thưa thớt người đi lại vào sáng
sớm tinh sương, ông nghiêng đầu nói khẽ với tôi:
- Anh có thấy Hà Nội buổi
sáng mồng Một này thiếu cái gì không?
Tôi không cần động não để
tìm câu trả lời. Câu hỏi được đặt ra chỉ là cái cớ cho câu trả lời đã có sẵn,
chắc chắn là sẽ rất Nguyễn Tuân.
- Thiếu sương! - Nguyễn
Tuân, mắt vẫn nhìn chung quanh, thở dài.- Anh không nhận ra cái sự thiếu ấy,
tôi không trách. Anh còn quá trẻ. Ngày trước, sáng mồng Một bao giờ cũng có
sương nhè nhẹ, không nhiều, một chút gọi là có, nhưng đích thực là sương. Nó
bay là là, thoang thoảng, như có mà như không. Rét ngọt. Chỉ có trên các lá cây
mới có sương hiển hiện, lâu lâu đọng thành giọt, rơi xuống mặt mình, có khi lọt
cả vào cổ áo mình, rất là Tết. Đã mấy năm nay, vào ngày Tết mình cứ thấy thiếu
thiếu cái gì đó mà không biết là cái gì. Bây giờ mới hiểu ra: đúng là thiếu nó,
thiếu sương.
Tôi bàng hoàng trước nhận
xét của ông. Tôi nhớ đến những năm xa xưa khi tôi còn rất nhỏ. Đúng là Hà Nội
những ngày đầu năm ấy sương la đà trên mặt đường, lẩn khuất trong những bãi cỏ,
bụi cây.
- Thưa bác, có lẽ tại Hà
Nội đông dân thêm, nhiều nhà máy nhiều xe cộ, thành thử cái tiểu khí hậu địa
phương thay đổi, nhiệt độ do đó mà cao hơn trước!
- Đốt anh đi! Các anh bây
giờ, đụng đến cái gì cũng vội vã chỉ ra nguyên nhân rồi dài dòng giải thích, cứ
như chung quanh mình toàn một lũ thất học vậy. Các anh làm văn kia mà - không
nhìn tôi, ông nhăn mặt cằn nhằn - Tôi là tôi đang nói cái có, tôi nói cái hiện
hữu, nói cái cảm xúc mà cái hiện hữu ấy gây ra. Còn cái chuyện đi tìm cội nguồn
của hiện tượng là việc của người khác.
- Thế là mất đứt cái anh
sương xuân bảng lảng. Tiếc quá đi mất! - Nguyễn Tuân lại thở dài. Ông buồn thật
sự.
- Thiếu nó, Tết Việt Nam nghèo đi, mà không chỉ nghèo đi một chút đâu nhá, anh hiểu
không? Đành vậy, sang năm phải tìm cách đón giao thừa ở ngoại thành, may chăng
còn có thể gặp lại nó.
Rồi đột ngột ông quay
sang chuyện khác:
- Này, năm nay giáp Tết
mưa thuận gió hòa, hoa đẹp lắm. Sao mấy hôm rồi không thấy anh đi chợ hoa?
Đã thành cái lệ, năm nào
bố tôi và Nguyễn Tuân cũng rủ nhau đi thưởng hoa ở Cống Chéo Hàng Lược. Có
những buổi hai ông la đà từ trưa tới tối mịt mới về đến nhà.
- Thưa bác, mấy hôm rồi
cháu lại mắc bận.
Tôi nói dối. Thực ra tôi
không đi vì tôi không thích chợ hoa. Cái mẩu phố hẹp có tên là Cống Chéo Hàng
Lược ngày thường đầy rác rưởi trong những ngày giáp Tết bỗng trở nên nhộn nhịp
khác thường. Trên là trời, dưới là hoa. Và người đi xem hoa, mua hoa. Những cây
quất trĩu quả vàng chen lẫn với các cành đào được cầm trên tay, các sọt đan
đựng đủ mọi loại cúc, loại hồng, lay-ơn, thược dược... Ở đây ồn ào quá, nhiều
trai thanh gái lịch quá. Nhiều gương mặt hãnh tiến quá. Tôi còn sợ nhìn cái
cảnh chợ chiều ba mươi Tết, khi những người bán hoa co ro trong manh áo mỏng,
cành đào trong tay, mặt ngơ ngác, lo âu chờ khách. Trong cái bầu không khí vui
vẻ quá nhân tạo ấy, bông hoa nào, cành hoa nào, chậu hoa nào cũng có vẻ tội
nghiệp bởi cái thân phận hàng hóa của chúng.
- Đào năm nay được mùa.
Chợ nhan nhản những đào là đào, giá lại hạ, nhà nghèo nhất năm nay cũng có đào
Tết. Thế mà đố có tìm ở Cống Chéo Hàng Lược được một cành nào như cành đào của
bố anh. Tuyệt! Không chê vào đâu được. Năm nào cành đào của ông ấy cũng làm tôi
mê man, cũng làm tôi sửng sốt: "Thằng
cha giỏi thật, sao mà nó khéo chọn đào đến thế!" Thôi, tôi về.
Còn phải đến mấy nhà nữa, mà mình thì thích cuốc bộ. Hôm nay tôi đến là để chúc
mừng gia đình anh đoàn tụ. Mai có khi tôi còn đến đây nữa. Để ngắm cành đào của
bố anh.
Ngày hôm sau ông lại đến
thật. Và đúng là chỉ để ngắm có một cành đào mà thôi.
Bố tôi không phải là nghệ
sĩ. Ông, nói của đáng tội, đã từng là nhà báo. Mặc dầu cũng động tới chữ nghĩa,
nhưng nhà báo vẫn có cái gì nó khác với nhà văn (tất nhiên không kể những người
có hai nghề nhập một). Nhà báo không có tính lập dị thường gặp ở các nhà văn và
các văn nghệ sĩ, hay là tính cách kỳ quặc nào đó ở họ mà người đời quy cho là
lập dị. Có điều, như một người thuộc lớp nho sĩ cuối cùng còn rớt lại, mặc dầu
có Tây học, ông thích cuộc sống thanh đạm và rất yêu hoa. Trong nhà tôi, kể cả
những lúc khó khăn nhất, bao giờ cũng có hoa. Trước khi ông đi tù ở nhà tôi là
một vườn phong lan đủ loại, nổi tiếng trong những vườn phong lan ở Hà Nội.
Tết nào ông cũng cầu kỳ
chơi hai thứ hoa: thuỷ tiên và và đào.
Thủy tiên là thứ hoa không bình dân. Nó không thèm nở nếu chẳng
may rơi vào tay người không biết thưởng thức. Để cho thủy tiên nở, phải biết
nghệ thuật trổ thủy tiên. Con dao dùng để trổ thủy tiên không phải là con dao
bài bất kỳ, mà là một con dao dùng riêng cho nó. Bố tôi mua củ thủy tiên về,
giá rất đắt, hình như là phải nhập khẩu chứ nước ta thời ấy chưa có cơ sở gây
trồng. Thuỷ tiên có bề ngoài giống một củ hành tây lớn, rất tầm thường, chẳng
hứa hẹn một hương sắc nào. Chuẩn bị cho việc gọt thủy tiên, bố tôi hì hục mài
dao cho tới khi nó bén đến mức đặt sợi tóc lên lưỡi dao mà thổi phù một cái thì
sợi tóc lập tức bị đứt đôi, và đầu nhọn của nó thì chỉ vô ý chạm ngón tay vào
là máu ứa ra liền. Rồi ông còn phải ngắm nghía hồi lâu cái củ hành nọ, cho tới
khi quyết định đặt nhát cắt đầu tiên lên mình nó. Những nhát cắt, nhát trổ
chính xác được ông cân nhắc từng tý, cho tới khi hài lòng đặt nó vào cái bát
thủy tinh, cũng lại thứ dành riêng cho nó.
Mẹ tôi chăm chú theo dõi bàn tay khéo léo của bố tôi xoay quanh củ thủy tiên. Bà cũng là người khéo tay, nhưng khéo tay ở những việc khác, chứ trổ thủy tiên thì bà chịu. Những Tết bố tôi vắng nhà, trên bàn thờ ông bà ông vải chỉ có hoa huệ, thủy tiên thì hoàn toàn vắng bóng. Hoa thủy tiên bắt đầu trổ những cánh xanh mập mạp cũng chẳng khác lá hành là mấy, nhưng chúng nhỏ nhắn, ngắn và không vươn quá thành bát đựng. Người gọt khéo có thể chỉ định đúng ngày hoa nở, khéo hơn nữa có thể đúng đến cả giờ.
Mẹ tôi chăm chú theo dõi bàn tay khéo léo của bố tôi xoay quanh củ thủy tiên. Bà cũng là người khéo tay, nhưng khéo tay ở những việc khác, chứ trổ thủy tiên thì bà chịu. Những Tết bố tôi vắng nhà, trên bàn thờ ông bà ông vải chỉ có hoa huệ, thủy tiên thì hoàn toàn vắng bóng. Hoa thủy tiên bắt đầu trổ những cánh xanh mập mạp cũng chẳng khác lá hành là mấy, nhưng chúng nhỏ nhắn, ngắn và không vươn quá thành bát đựng. Người gọt khéo có thể chỉ định đúng ngày hoa nở, khéo hơn nữa có thể đúng đến cả giờ.
Thuỷ tiên do bố tôi gọt bao giờ cũng nở hết số hoa nó chứa
trong mình vào đúng giao thừa, chính xác vào cái giờ khắc thiêng liêng nhất của
sự giao hòa giữa người thuộc cõi âm và người thuộc cõi dương, giữa tổ tiên và
con cháu. Bố tôi đứng lặng trước ban thờ ông bà, đầu hơi cúi. Mẹ tôi đứng sau
ông thì thầm khấn vái. Hương trầm ngát trong nhà. Rồi pháo của một nhà nào đó
nổ vang, kéo theo sau nó cả một đợt sóng triều tiếng pháo râm ran.
Tôi không bao giờ thấy được hương thủy tiên vào lúc thủy tiên nở
hết hoa của nó trong hương trầm và khói pháo. Sáng sớm mồng Một, rất sớm, khi
trời đất đã lặng đi mọi tiếng động của sự đón Xuân, lúc ấy mới thấy được hương
thủy tiên thoang thoảng. Đó là một hương thầm ẩn náu, thoang thoảng mà kiêu sa.
Nó không để lại trong tôi một ấn tượng rõ rệt nào. Tôi cũng không cảm nhận được
cái đẹp của hoa thủy tiên. Mà cũng có thể đó là do ảnh hưởng câu chuyện chàng
Narkisoss trong thần thoại Hy Lạp mải mê ngắm sắc đẹp của chính mình trong nước
suối, mải mê đến nỗi ngã xuống mà chết đuối, trở thành loài hoa nọ. Tôi không
thích những người say mê chính mình.
Sau khi bố tôi qua đời, chẳng bao giờ trong nhà tôi còn có hoa thủy tiên nữa. Nhưng hoa đào thì không bao giờ vắng bóng trong những ngày Tết gia đình, với cách thưởng thức truyền thống mà những thế hệ đi trước để lại.
Trước Tết một tháng, bố tôi, thường có tôi đi theo, đạp xe lên vùng Quảng Bá, Nhật Tân, Nghi Tàm, nơi có những nhà trồng hoa cha truyền con nối. Cùng với một chủ vườn nào đó đã trở thành người quen, bố tôi đi thăm vườn và xem xét kỹ từng gốc đào để rồi cuối cùng chọn lấy một cành thấp, ưng ý nhất. Tiền đặt mua cành đào được trao ngay cho chủ vườn. Giá thường rất rẻ, lúc ấy chưa có ai mua đào. Ông chủ vườn rút con dao nhíp trong túi ra, đánh dấu cành đào dành cho bố tôi. Chắc chắn nó sẽ không bị bán vào tay ai khác. Bố con tôi hài lòng ra về. Tôi biết, trong óc bố tôi đã hiện lên cành đào trong tương lai sẽ được đặt ở đâu, trong cái bình nào ở nhà mình trong ngày Tết.
Khoảng hai bảy, hai tám tháng Chạp, bố tôi mới lên vườn nhận cành đào về. Ông chủ vườn trao cành đào cho bố tôi với vẻ tiếc rẻ, không ngớt lời khen bố tôi có con mắt tinh đời. Nhưng đó là cách đánh giá của hai người biết chơi hoa với nhau. Người thường sẽ không mua cành đào này. Nó xù xì ở phần gốc, có mấy cành đua dài và gân guốc, trên đó chỉ thấp thoáng một số nụ.
Sau khi bố tôi qua đời, chẳng bao giờ trong nhà tôi còn có hoa thủy tiên nữa. Nhưng hoa đào thì không bao giờ vắng bóng trong những ngày Tết gia đình, với cách thưởng thức truyền thống mà những thế hệ đi trước để lại.
Trước Tết một tháng, bố tôi, thường có tôi đi theo, đạp xe lên vùng Quảng Bá, Nhật Tân, Nghi Tàm, nơi có những nhà trồng hoa cha truyền con nối. Cùng với một chủ vườn nào đó đã trở thành người quen, bố tôi đi thăm vườn và xem xét kỹ từng gốc đào để rồi cuối cùng chọn lấy một cành thấp, ưng ý nhất. Tiền đặt mua cành đào được trao ngay cho chủ vườn. Giá thường rất rẻ, lúc ấy chưa có ai mua đào. Ông chủ vườn rút con dao nhíp trong túi ra, đánh dấu cành đào dành cho bố tôi. Chắc chắn nó sẽ không bị bán vào tay ai khác. Bố con tôi hài lòng ra về. Tôi biết, trong óc bố tôi đã hiện lên cành đào trong tương lai sẽ được đặt ở đâu, trong cái bình nào ở nhà mình trong ngày Tết.
Khoảng hai bảy, hai tám tháng Chạp, bố tôi mới lên vườn nhận cành đào về. Ông chủ vườn trao cành đào cho bố tôi với vẻ tiếc rẻ, không ngớt lời khen bố tôi có con mắt tinh đời. Nhưng đó là cách đánh giá của hai người biết chơi hoa với nhau. Người thường sẽ không mua cành đào này. Nó xù xì ở phần gốc, có mấy cành đua dài và gân guốc, trên đó chỉ thấp thoáng một số nụ.
Sau đó là phần sửa soạn cho cái đẹp của cành đào. Bố tôi còn
ngắm nó chán chê rồi mới lấy dao cắt bỏ một số cành con, đem thui phần gốc, rồi
trịnh trọng đặt cành đào vào trong lọ độc bình. Đó là một cái lọ lớn, thường là
lọ sành, nhưng phải thấp, miệng rộng, rất bình dị, đến nỗi khi cành đào đã ngự
trong đó thì không còn nhìn thấy cái lọ đâu nữa. Cành đào được đặt trong góc
nhà. Những cành đua của nó hướng về phía cửa, khách vào có thể nhìn thấy những
cánh tay của nó vươn ra chào đón.
Cũng như thủy tiên, cành đào sẽ nở rộ vào đêm trừ tịch.
- Chơi hoa là cách con người tìm niềm vui, tìm tâm trạng thư thái trong mối giao hòa với thiên nhiên - bố tôi tâm sự trước cành đào
- Người ta chỉ có thể đón thiên nhiên vào nhà mình, chứ không thể mua thiên nhiên đem về hoặc tệ hơn, áp giải nó về với mình. Vì vậy mà cái bình phải khiêm tốn để tôn vẻ đẹp của cành đào, của mùa xuân. Cành đào đẹp trước hết là ở cái dáng, cái thế của nó: phần gốc xù xì cho ta cảm giác về sự vững bền của nền tảng, những cành đua không nên nhiều quá để tạo ra cảm xúc thanh thoáng, khoáng đạt.
Cũng như thủy tiên, cành đào sẽ nở rộ vào đêm trừ tịch.
- Chơi hoa là cách con người tìm niềm vui, tìm tâm trạng thư thái trong mối giao hòa với thiên nhiên - bố tôi tâm sự trước cành đào
- Người ta chỉ có thể đón thiên nhiên vào nhà mình, chứ không thể mua thiên nhiên đem về hoặc tệ hơn, áp giải nó về với mình. Vì vậy mà cái bình phải khiêm tốn để tôn vẻ đẹp của cành đào, của mùa xuân. Cành đào đẹp trước hết là ở cái dáng, cái thế của nó: phần gốc xù xì cho ta cảm giác về sự vững bền của nền tảng, những cành đua không nên nhiều quá để tạo ra cảm xúc thanh thoáng, khoáng đạt.
Bố tôi không thích đào rực rỡ quá, khoe khoang quá, hợm hĩnh
quá.
- Đào như thế này đẹp hơn nhiều, cánh của nó chỉ phơn phớt một màu hồng nhạt, vừa có duyên, vừa thầm kín. - bố tôi dạy - Người Nhật thích màu hồng của hoa sakura - anh đào, có dễ cũng vì lẽ đó. Tín đồ của Thần đạo không chịu nổi những hương sắc quá thế tục. Thêm nữa: trên cành đào Tết không nên có quá nhiều hoa. Lá xanh bên cạnh hoa làm tăng vẻ đẹp của hoa lên. Tất nhiên, mỗi người một ý, nhưng ông nội con và bố đều không ưa những cành đào đầy ắp hoa, cành nào cành ấy đều đặn, trông xa như một cái nơm. Đã thế có người lại còn cắm cái nơm đào ấy vào cái lọ độc bình cổ cao, bằng sứ, với đủ mọi hình vẽ cầu kỳ sặc sỡ, rồi đặt nó ngất nghểu trên bàn thờ ông vải nữa chứ. Không, chỗ của đào không phải ở đó. Bố thích đặt nó ở đây dưới đất, ngang tầm với mình.
- Đào như thế này đẹp hơn nhiều, cánh của nó chỉ phơn phớt một màu hồng nhạt, vừa có duyên, vừa thầm kín. - bố tôi dạy - Người Nhật thích màu hồng của hoa sakura - anh đào, có dễ cũng vì lẽ đó. Tín đồ của Thần đạo không chịu nổi những hương sắc quá thế tục. Thêm nữa: trên cành đào Tết không nên có quá nhiều hoa. Lá xanh bên cạnh hoa làm tăng vẻ đẹp của hoa lên. Tất nhiên, mỗi người một ý, nhưng ông nội con và bố đều không ưa những cành đào đầy ắp hoa, cành nào cành ấy đều đặn, trông xa như một cái nơm. Đã thế có người lại còn cắm cái nơm đào ấy vào cái lọ độc bình cổ cao, bằng sứ, với đủ mọi hình vẽ cầu kỳ sặc sỡ, rồi đặt nó ngất nghểu trên bàn thờ ông vải nữa chứ. Không, chỗ của đào không phải ở đó. Bố thích đặt nó ở đây dưới đất, ngang tầm với mình.
Tôi kể cho Nguyễn Tuân nghe cách bố tôi nhìn vẻ đẹp của cành
đào. Ông tủm tỉm cười:
- Về đại thể, bố anh đúng. Nhưng ông ấy cũng có mắc một chút bệnh giải thích. Cái đẹp, theo tôi, là cái không giải thích được. Chỉ có thể cảm nhận được nó mà thôi. Bố anh cũng chẳng giải thích nổi tại sao ông đã cắt đi một cành con này mà không phải một cành con khác, tại sao ông giữ cành đua này mà lại bỏ cành đua kia, cái cành được để lại ấy gợi nên trong lòng ông cảm xúc gì. Còn về phần màu xanh của lá trên cành đào thì ông ấy đúng hoàn toàn. Hay gì một cành đào chi chít hoa? Nó làm ta phát ngán. Mùa xuân thì phải có màu xanh của lá, của sự đâm chồi nảy lộc, mới là xuân!
Bây giờ, cả bác Nguyễn Tuân, cả bố tôi, đều đã khuất núi.
Chỉ còn lại cái đẹp của hoa xuân mà hai ông tâm đắc ở trong tôi. Và nỗi bùi ngùi mỗi lần Xuân đến.
24/12/2002
- Về đại thể, bố anh đúng. Nhưng ông ấy cũng có mắc một chút bệnh giải thích. Cái đẹp, theo tôi, là cái không giải thích được. Chỉ có thể cảm nhận được nó mà thôi. Bố anh cũng chẳng giải thích nổi tại sao ông đã cắt đi một cành con này mà không phải một cành con khác, tại sao ông giữ cành đua này mà lại bỏ cành đua kia, cái cành được để lại ấy gợi nên trong lòng ông cảm xúc gì. Còn về phần màu xanh của lá trên cành đào thì ông ấy đúng hoàn toàn. Hay gì một cành đào chi chít hoa? Nó làm ta phát ngán. Mùa xuân thì phải có màu xanh của lá, của sự đâm chồi nảy lộc, mới là xuân!
Bây giờ, cả bác Nguyễn Tuân, cả bố tôi, đều đã khuất núi.
Chỉ còn lại cái đẹp của hoa xuân mà hai ông tâm đắc ở trong tôi. Và nỗi bùi ngùi mỗi lần Xuân đến.
24/12/2002
Vũ Thư Hiên
(Theo Tễu Blog)
Nhận xét