4733. Chuyện ở tỉnh lỵ
Chuyện ở tỉnh lỵ
Truyện ngắn Vũ Thư Hiên
Thư ký toà soạn ngồi ủ rũ sau bàn làm
việc, ngước cặp mắt đục ngầu nhìn tôi:
- Số nầy mình lại thiếu bài đấy, ông ơi!
Ông coi có chi lấp vô đó không?
Giọng khàn khàn, mặt hằn dấu một đêm mất
ngủ, anh gượng nở một nụ cười, nhưng không thành. Trong tấm áo sơ mi màu cháo
lòng và cái quần kaki nhiều tuổi, cả hai đều thùng thình, trông anh thật thảm
hại. Bên trên thân hình thấp bé và cái cổ ngẳng là cái đầu to quá khổ, ở đó
những vết nhăn trên trán và hai đường pháp lệnh hằn sâu nơi khoé miệng làm cho
anh có dáng một thầy ký già thời trước.
Tôi cố làm ra vẻ không dửng dưng trước
nỗi đau khổ của anh:
- Gì vậy, lại bị cúp hả? Mấy bài?
Mùa hè, mới bảnh mắt mà căn phòng đã
nóng hầm hập. Trên đầu, cái quạt trần Marelli già lão kêu kèn kẹt. Nước trà đặc
vừa pha bốc hơi trên những chén sứ Hải Dương.
- Một bài thôi. Mấy bài có mà chết.
- Mất lập trường?
Anh nhún vai:
- Đại khái thế. Còn vì cái gì nữa?
Chẳng có gì đáng ngạc nhiên trước việc
ai đó trong chúng tôi mất lập trường. Ở tờ báo của chúng tôi, mà ở tờ báo nào
cũng thế, cái sự mất này xảy ra thường.
- Một bài, cả ảnh, thì có gì khó.
- Nhưng đề tài nào đây? Khốn nạn là ở
chỗ ấy cơ, ông ơi.
Toàn bộ con người anh toát ra vẻ mỏi
mệt, trông mà thương.
Tôi không coi việc tờ báo bị cắt bài là
chuyện quan trọng. Cái tai nạn này, nói cho đúng, không xảy ra cho mỗi số báo,
nhưng một khi đã xảy ra, nó có dáng dấp một biến cố. Mọi người đều bị chấn động.
Tôi thì không. Tôi không gắn bó với tờ
báo. Không phải bởi tình yêu nghề nghiệp mà tôi đến với nó, số phận dun dủi đưa
tôi tới đó. Thêm vào đấy, tôi biết rất rõ rằng mọi tai họa đều nhẹ khi nó không
phải của riêng ai, mà thuộc về một đám người do tình cờ có chung một chỗ ở hoặc
một chỗ làm, gọi là tập thể.
Tội nghiệp cho thư ký toà soạn - nỗi bất
hạnh bao giờ cũng đến vào phút chót, cũng nhè vào đầu anh, chứ không phải vào
đầu ông chủ nhiệm chẳng hạn, đúng vào lúc phải giao "bông" lần chót
cho nhà in.
- Chán mớ đời! - anh ngả người trên ghế,
nhắm mắt lại, giọng não nuột.
- Ông tính sao? - tôi hỏi.
- Đang nghĩ, mà chưa ra - anh gãi đầu,
đáp.
Mới đầu giờ làm việc mà anh gọi tôi qua
phòng anh uống trà là tôi biết ngay có chuyện chẳng lành. Hai chúng tôi hiếm
khi trà lá với nhau. Cái trà đạo thuần Việt này một thời rất thịnh hành ở các
cơ quan - một thứ giải lao hiền lành, vô thưởng vô phạt, không hại cho ai, chỉ
làm mất thời giờ của nhà nước. Mà thời giờ là cái mà nhà nước không quý. Khi
một người đã ở trong biên chế, anh ta làm được việc hay không làm được việc
không phải là điều quan trọng. Nếu anh ta làm việc không ra gì thì người ta phê
bình, cảnh cáo, tệ hơn nữa thì thi hành kỷ luật, thuyên chuyển công tác, nhưng
đuổi việc thì không.
Giữa tôi và thư ký toà soạn xích mích
không, thành kiến không, nhưng thân nhau cũng không nốt. Ra khỏi quân đội sau
khi hoà bình lập lại, anh là chính uỷ trung đoàn, tôi ở cấp đại đội. Sự khác
biệt này, có vẻ không đáng kể trong tình đồng chí, nhưng nó lại tạo ra một cái
hố không dễ vượt qua.
Tôi khuyên anh:
- Nghĩ ngợi làm quái gì, ông xem còn bài
dự trữ nào thì cho đại vào.
Anh khổ sở lắc đầu:
- Bới đâu ra? Nhẵn như chùi.
Trước khi báo ra, theo lệ, anh phải
trình nó, đã "mi" tử tế, lên nguyên tổng bí thư đảng, người đẻ ra tờ
báo xuất bản bằng tiếng nước ngoài của chúng tôi. Ngay từ những số đầu tiên,
nhân vật ngũ đoản, hói đầu, lùn tịt, mà chân dung chễm chệ trong mỗi nhà, đã
xắn tay áo duyệt từng bài, từng ảnh. Bài nào không ưng, ông xổ toẹt không
thương tiếc. "Báo của ta dành cho độc giả ngoại quốc, phải đặc biệt cẩn
thận, không được để sót một lỗi nhỏ. Thế giới người ta nhìn vào, chớ để người
ta khinh mình", ông căn dặn chúng tôi, không phải chỉ một lần, bằng giọng
cha trẻ của dân tộc.
Cái lệ ấy được giữ mãi, kể cả khi ông
mất ghế tổng bí thư vì một sai lầm không phải do một mình ông gây ra. Bây giờ
ông chỉ còn một chức vị hữu danh vô thực, nhưng lệ cũ vẫn được giữ. Chẳng ai
giành của ông cái việc duyệt bài cho một tờ báo. Chuyện khó tin mà có thực. Đời
nào tổng bí thư thèm duyệt bài cho một tờ báo, dù đó là báo đảng, nhưng đó là
sự thật, tôi không bịa chuyện. Ở nước ta trên là Trời, dưới là tổng bí thư. Sở
dĩ ông trời con của chúng tôi chiếu cố đến việc vặt là vì ông thích làm gương
cho cán bộ cấp dưới. "Phàm là cán bộ thì phải "thực sự cầu thị",
cái gì cũng phải nắm vững, không để cái gì tuột qua mắt mình", ông cao
giọng dạy cấp dưới.
Ai chẳng biết để kiểm tra nội dung tư
tưởng các sản phẩm văn hoá đã có Ban tuyên giáo Trung ương và các ban ngành
chuyên môn khác, kể cả các cục vụ tương đương trong Bộ Công an. Mà tất cả đám
này cũng chỉ ngó tới các bài báo trong trường hợp đặc biệt, khi có người phát
hiện những sai sót nghiêm trọng. Cái việc vặt ấy đã có cán bộ tại chỗ phụ
trách: nào chủ nhiệm, nào tổng biên tập, nào thư ký toà soạn, nào bí thư chi
bộ, rồi các chi uỷ viên, đảng viên, các phần tử tích cực sắp được kết nạp Đảng,
và chính người viết bài, nghĩa là tất tần tật mọi người, không trừ một ai. Một
sự tự kiểm duyệt hoàn hảo.
Tôi mách nước:
- Hay là cho đi một ảnh phong cảnh? Hoặc
một trang biếm hoạ?
- Tớ chả dại - thư ký toà soạn quầy quả
phẩy tay như xua ruồi - Ông còn nhớ vụ cái tranh vui bên tờ Lao Động không? Cái
đó dễ ăn đòn lắm. Chết có ngày. Cần một bài, ông ạ, một bài thôi, càng vô
thưởng vô phạt càng tốt.
- Còn mấy ngày?
- Ít là ba, nhiều là bốn.
- Hừm, căng đấy. - tôi lầu bầu.
- Chứ lại không căng à?
Tôi cười ranh mãnh:
- Thì ông cứ nói thẳng ra xem nào. Ý ông
muốn tôi làm chứ gì?
Anh hì hì:
- Ông tính, còn ai vào đấy chứ?
Phần lớn phóng viên, biên tập viên lúc
này vắng mặt. Vả lại, thư ký toà soạn thừa hiểu dù có mặt họ cũng không đủ tháo
vát để lấp cái chỗ trống huếch trống hoác kia một cách chắc chắn, để không bị
trên xổ toẹt lần nữa. Tôi đã đôi lần cứu nguy cho tờ báo trong trường hợp tương
tự, anh tin ở tôi.
Suy nghĩ một lát, tôi nói:
- Thôi được, tôi đi vậy. Nhưng lần này
đi gần thôi đấy nhé.
- Ông đi xa có mà chết tôi à?
Mặt anh tươi hẳn. Về chuyện tôi chọn nơi
nào anh không bao giờ có ý kiến. Mặc tôi muốn đi đâu thì đi, miễn phải có bài.
Và đúng hạn.
Rút trong ngăn kéo bàn một gói Điện Biên
bao bạc nguyên vẹn, thư ký toà soạn đẩy nó về phía tôi. Đấy là phần thưởng cho
sự đồng ý của tôi. Vào thời gian này thuốc lá hiếm, phải là cấp lãnh đạo mới có
tiêu chuẩn phân phối Điện Biên bao bạc. Chúng tôi, biên tập viên và phóng viên,
chỉ được mua Tam Đảo thôi, mà nhiều khi Tam Đảo cũng chẳng có, người ta thay
vào thuốc lá vụn của nhà máy Thăng Long. Tôi xứng đáng được thưởng, chắc anh
nghĩ thế.
Ở toà soạn các tờ báo, không riêng ở chỗ
chúng tôi, mọi người lười đi địa phương lắm. Lương phóng viên, được tính như
làm việc trí óc, rất thấp so với công nhân làm lao động chân tay. Công tác phí
thì chẳng được bao nhiêu, giá sinh hoạt ở các tỉnh lại đắt đỏ do thiếu hàng bao
cấp, không khéo giật gấu vá vai là lỗ vốn. Phóng viên đùn đẩy nhau đi công tác
là chuyện hàng ngày.
Tôi khác. Tôi được coi là con dao pha
trong nhiều lĩnh vực, lại dễ tính, cho nên thư ký toà soạn quen đẩy tôi vào
những việc anh em khác ngại, không muốn làm.
Không ai biết rằng tôi thích được đi xa.
Đi là dịp tốt cho sự bồi bổ kiến thức, làm lợi cho mình, mà lại được nhà nước
trả tiền, còn gì tốt bằng? Và cái chính là tôi ngán đến tận cổ những cuộc kiểm
điểm nội bộ thường kỳ, những buổi nghe "trên" thông báo chính sách,
giải thích đường lối, những đợt học tập chính trị không ngừng. Tất cả những thứ
lởm khởm đó làm cho bầu không khí thành phố đã vốn ngột ngạt lại càng thêm ngột
ngạt.
Nhưng tôi không bao giờ tôi để lộ ý
thích của mình. Sách của tôi là thế này: muốn được đi nhiều, đi những chuyến xa
xôi, tốn kém, thì phải biết giấu cái thích của mình đi. Phải làm ra vẻ ngần
ngại, phải viện lý do này nọ đã, phải õng ẹo từ chối cái đã, để cho người ta
phải năm lần bảy lượt nói khó với mình cái đã, rồi mới giả bộ bị thuyết phục
bởi những lý do mà họ đưa ra, để rồi sau hết mới chịu, ừ, đi thì đi.
Lạ thế đấy, nhưng mà đúng là thế đấy,
trong cái xã hội kỳ cục của chúng tôi, mình muốn cái gì thì y như rằng cứ phải
giấu, cứ phải làm ra vẻ không thích, thì mới được toại nguyện.
Khi nói chuyện với thư ký toà soạn,
trong bụng tôi đã chọn Thái Bình. Nó có thừa những cái thú vị để viết. Riêng
mảng nghệ thuật dân gian như chèo, múa rối cạn, múa rối nước, nghề chạm bạc,
nghề đan lát, các trò chơi, hội hè, đình đám..., muốn bao nhiêu bài cũng có. Vả
lại, tôi thích đi nông thôn hơn tới các thành phố. Đối với tôi nông thôn mãi
mãi là một cái gì khó hiểu, nó gợi tò mò, nó đòi phải giải đoán. Tôi không tài
nào hiểu nổi vì lẽ gì người quê tôi, hiền lành một cục, đang sống với nhau yên
lành là thế, bỗng dưng hoá điên cả lũ hồi cải cách ruộng đất, nhà nọ tố nhà
kia, con cái tố bố mẹ. Lại có cô gái ngẩn ngơ, điếc lác, xưng xưng vạch mặt ông
chủ tịch xã hiếp mình mấy chục lần, kể vanh vách từng lần một. Đến sửa sai, thì
khóc rưng rức: "Con cắn cỏ con xin lỗi ông, chứ thứ con có nằm ngửa ra mời
cũng chẳng ma nào nó rờ". Những tác phẩm viết về đề tài nông thôn tìến lên
xã hội chủ nghĩa của mấy nhà văn hay chữ và khôn lỏi, được giới phê bình kém
hay chữ nhưng khôn lỏi không kém, tán dương ầm ĩ, không thuyết phục được tôi.
Chúng giống những phác hoạ vụng về của thợ vẽ phố chợ, không phải cuộc đời.
Từ Hà Nội đến Thái Bình gần lắm. Chỉ
việc ngồi tàu hoả một mạch đến Nam
Định, rồi đáp ô tô qua sông Hồng ở bến đò Tân Đệ là đã sang đất Thái Bình.
Nghĩ thế nào, vào phút chót tôi lại đổi
ý, không ra ga Hàng Cỏ lấy vé đi tàu hoả nữa mà đạp xe ra Phà Đen, mua vé ca-nô
xuôi sông Hồng. Phương tiện di chuyển bằng đường sông chậm rề rề. Chỉ được cái
rẻ. Nhưng đắt rẻ đã có nhà nước thanh toán, rỗi hơi mà tiết kiệm cho ngân sách.
Tôi chọn cái phương tiện ẩm ương này bởi lẽ nhà thơ Quang Dũng, vừa từ châu thổ
sông Hồng về, nói với tôi rằng đi ca-nô trong mùa hè thú đáo để - mát hơn tàu
hoả nhiều, lại tha hồ ngắm cảnh.
Đúng là ca-nô có cái hay của nó - lòng
ca-nô thênh thang, ghế ngồi rộng rãi, lại có cả một khoảng trống lớn ở giữa, có
thể trải vải nhựa ra mà nằm. Khi tôi tìm được chỗ ngồi thì dưới chân tôi đã có
mấy người ngủ mê mệt.
Nhưng bến ca-nô thì không thể sánh với
sân ga được. Nằm ngay bên mặt đê, bến là cái sườn đê đổ xuống sông. Cái xe đạp,
cộng với ba-lô cột chặt trên đèo hàng, tất cả ở trên vai, tôi phải cố gắng rê
từng bước trên triền đê để không bị lăn lông lốc xuống cái dốc dựng đứng. Sau
một lúc đi ngang như cua, thở phì phò như bễ lò rèn, rốt cuộc rồi tôi cũng trôi
được xuống lòng cái ca-nô đang bình thản đung đưa trên mặt nước màu gạch của
phù sa đậm đặc.
Ca-nô cũng có cái khó chịu của nó. Trước
hết là những mùi khó ngửi. Không thể kể ở đây có bao nhiêu mùi: mùi khói cay xè
của động cơ đi-den, mùi phân và nước giải lợn, mùi hôi từ những bu gà, mùi quần
áo người không bao giờ biết đến xà phòng… May, khi ca-nô bắt đầu chạy thì gió
sông Hồng cũng bắt đầu lồng lộng thổi vào, mang theo hương phù sa nồng ấm.
Nhưng gió chỉ thổi từng đợt, khi gió vừa ngừng là những mùi khó chịu lại chồm
lên, xộc vào mũi.
Không khí ẩm bị mặt trời thiêu đốt tạo
ra ảo giác như thể những tháp chuông giáo đường ở nơi chân trời bị mất trọng
lượng, chúng hiện lên không rõ nét, khẽ rung rinh bên trên những dải làng mạc
màu lục nhạt của tranh thuốc nước. Những con thuyền đi ngược chiều trôi vùn
vụt, không một tiếng động, như thể chúng là hình ảnh trong mơ. Gió quạt hơi ẩm
vào mặt, gây buồn ngủ. Giấc ngủ luôn bị đứt quãng bởi giọng ténor của anh ét
ca-nô, một thanh niên loắt choắt và đen nhẻm, réo rắt xướng tên bến. Những cái
tên nôm na thật dân dã, những cái tên sang trọng sặc mùi Hán Việt, tên nào được
anh ta xướng lên nghe cũng thấy thú vị.
Ca-nô không phải ô tô, nó không rẽ vào
bến. Trên đường đi của nó, ca-nô bỗng kéo vài hồi còi hiệu, đột ngột giảm tốc
độ. Lúc ấy tiếng máy trở thành ngập ngừng một lát, rồi tắt hẳn. Ấy là nó đến
bến, chờ những con đò bé nhỏ từ bờ sông bơi ra "màn xế". Những con đò
im lặng vùn vụt bay trên mặt sông, áp vào mạn ca-nô, lắc lư đi theo nền văn
minh cơ giới một quãng, vừa đủ thời gian cho khách lên khách xuống, cùng với
thúng mủng, gồng gánh và bao tải. Khách đi ca-nô không phải mua vé trước, ở các
bến quê không có trạm bán vé, lên ca-nô cứ việc kiếm chỗ ngồi, anh ét khắc tới
thu tiền.
Mỗi lần những con đò áp mạn là mỗi lần
tôi tỉnh giấc.
Tiếng rao hàng trên những bến sông không
ngân nga như những tiếng rao hàng ở phố. Nó bốc cao, the thé, dữ tợn và cộc
cằn. Những người bán rong trên sông thường là đàn bà. Mà thường là đàn bà không
nhỏ nhắn. Ấn tượng này gây ra bởi một chị chàng cao lớn vận đồ đen từ con đò
đầu tiên áp mạn, có lẽ thế. Vừa nhảy lên ca-nô, chưa hạ thúng hàng trên đầu
xuống, chị ta đã quát lớn "Dày giòòò!". Gương mặt xạm nắng, xương xẩu
của chị gợi hình dung về một tẩu tẩu Lương Sơn Bạc. Khách đi ca-nô hiếm khi mua
quà. Mỗi người đã mang theo cơm nắm muối vừng, hoặc mấy khúc sắn. Tôi mua của
tẩu tẩu một cặp bánh dày nhỏ kẹp một lát giò lụa mỏng.
Ngồi bên cạnh tôi là một người vận bộ
đại cán bạc màu, đeo xà-cột vải bạt - một người nhà nước ở cấp huyện. Khi ca-nô
bắt đầu chạy, anh ta giở báo Nhân dân ra đọc, nhưng chỉ được vài phút là đã
ngáy ầm ầm, đầu ngật ra đàng sau. Mãi đến khi mặt trời đứng bóng, anh ta mới
choàng tỉnh. Giật mình vì ngủ quên, anh ta vén tay áo xem đồng hồ, rồi tức tốc
moi bánh mì trong xà-cột ra ăn. Cái bánh mì bị mổ bụng, chắc có kẹp thịt hoặc
ruốc. Hành động của người nhà nước lập tức được đám dân chúng bắt chước. Họ
đồng loạt giở thức ăn mang theo ra, mời mọc nhau ỏm tỏi. Cả ca-nô lập tức ồn
ào. Tôi lấy cặp bánh dầy của tôi ra, ăn cùng họ.
Mấy người đàn bà ngồi dưới sàn, quần áo
lôi thôi lốc thốc, ngồi giãi thải trên sàn gỗ đen xì dàu mỡ, ăn xong trước tôi,
bắt đầu cuộc chuyện vãn bất tận. Tôi lại thiêm thiếp ngủ trong những đợt gió
thoảng và tiếng ca-nô rì rầm. Trong sự đổi chỗ của tiếng máy nổ đùng đục và các
thứ mùi, tôi loáng thoáng nghe họ kháo nhau về một tai nạn ô tô nào đó:
- Ông ấy chết tức thì, cả một cái hậu xe
tông vào, bà tính, sống sao được...
- Xổ ruột ra hả?
- Không, vưỡn còn nguyên, cấm có chảy tí
máu nào. Dưng mà chết.
- Tội nghiệp, ông ấy tốt tính lắm, ở
tỉnh ai cũng biết ông ấy, bác sĩ trẻ mà mát tay đáo để...
- Con cháu út bà chị dâu em đau ruột,
không gặp được ông ấy thì xanh cỏ rồi, may ơi là may. Cháu nó khỏi rồi, ông ấy
còn đến tận nhà thăm...
- Thế cái ông giám đốc ấy, sau có sao
không?
- Sao ông sao trên trời. Giám đốc đâu
phải là dân đen...
- Có vậy.
Mãi chiều tối ca-nô mới tới bến.
Gọi là bến cho sang, chứ trên con đê chỉ
có một quán nước xiêu vẹo, với một ngọn đèn Hoa Kỳ toả ánh sáng vàng vọt trong
hoàng hôn vắng lặng. Từ bến ca-nô vào thị xã chỉ vài bước chân.
Hành khách vừa leo được lên bờ đê thì
một đàn trẻ con chực sẵn ùa tới. Chúng không xin, mà lặng lẽ chìa những bàn tay
gày guộc về phía họ. Những cặp mắt trong veo chứa chan hi vọng rõi vào từng
mặt, đoán xem người khách này hay người khách kia sẽ cho hay không cho. Hành
khách, phần lớn có vẻ ngoài không khác những đứa trẻ ăn xin bao nhiêu, bối rối
tránh những cặp mắt dò xét, lật đật bước qua chúng. Vài người dừng lại, móc túi
tìm tiền lẻ. Chủ quán, một người đàn ông hung dữ, từ trong quán xồng xộc bước
ra, tay vung cái roi mây:
- Chết giờ! Đi ngay tắp lự, ông cho
chúng bay mấy roi thấy ông bà ông vải bây giờ.
Như một đàn chim sẻ hoảng hốt, lũ trẻ ré
lên, chạy tán loạn.
Tôi lang thang trong cái thị xã nhỏ bé,
rất điển hình của các tỉnh lỵ, miền xuôi cũng như miền ngược, có một cửa hàng
mậu dịch ăn uống duy nhất, và nhiều đến ngạc nhiên những hiệu cắt tóc và hiệu
vá quần áo. Tôi chui vào trong tấm liếp chống nắng ở một cửa hiệu sách và bắt
gặp qua tấm kính mờ mịt một Victor Hugo mốc meo bên cạnh một Tolstoi quăn queo.
Bụi phủ đầy Mác và Lênin. Đi đến mỏi chân, tôi quay lại cửa hàng mậu dịch, ăn
một bát phở không người lái mầu nước gạo, uống một cốc xi-rô nhạt thếch màu
cháo tiết, rồi lững thững đạp xe đi tìm nhà trọ.
Nhà trọ mà tôi tìm được thuộc loại rẻ
tiền, chỉ có hai phòng, mỗi phòng sáu giường. Chủ nhà trọ là một ông già gày
còm, nghễnh ngãng. Cái nhìn ngước trên cặp kính lão gọng sừng không giấu giếm
theo dõi tôi, cho tới khi tôi nằm lên cái phản ọp ẹp, trên trải một manh chiếu
với màu sắc rất đáng ngờ. Chắc hẳn đây là một nhà trọ kiểu mẫu, trong số rất ít
những nhà trọ tư nhân còn sót lại của thời tạm chiếm, chỉ ở tỉnh lẻ mới có.
Riêng cái việc ông chủ lật xuôi lật ngược đọc giấy tờ tuỳ thân của tôi tới mười
lăm phút, có khi còn hơn thế, con người này có được chính quyền tín nhiệm cũng
đáng. Từ chỗ nằm của tôi một khẩu hiệu kẻ chữ đen trên giấy vàng đập vào mắt:
"Không nói, không nghe, không thấy". Mệt mỏi, tôi ngủ ngay lập tức,
thực hiện "ba không" một cách nghiêm chỉnh.
Sáng hôm sau tôi oằn lưng đạp xe về phía
biển, đến Đồng Sâm, ngôi làng trù phú nhất tỉnh. Làng này nổi tiếng không những
trong tỉnh, mà cả miền Bắc. Làng của những người thợ bạc, thợ làm đồ kim hoàn,
có lịch sử lâu đời, không biết đã bao nhiêu thế kỷ. Các bậc chức sắc trong làng
tuồng như đã quen với sự đến thăm của các nhà báo, tiếp tôi vừa đủ vồn vã, vừa
đủ thân mật, chứ không suồng sã. Bí thư xã, một người đen đủi, ít lời, trong bộ
quân phục bạc phếch, rít điếu thuốc cho đến tụt vào nõ, rồi ngửa mặt lên trời
mà nhả khói:
- Đồng chí định ở chỗ chúng tôi mấy
ngày? Chỉ viết về nghề bạc thôi à? Nghề bạc của chúng tôi truyền thống lắm,
nhiều đồng chí đã đến, trung ương có, địa phương có, nhà báo, nhà văn, đủ cả.
Hay là đồng chí muốn tìm hiểu thêm về phong trào dân quân? Đồng Sâm chúng tôi
sắp được Bộ Tổng tặng cờ Ba Nhất đấy...
Cuộc sống cho tôi cái mẫn cảm cần thiết.
Qua những câu hỏi kín đáo tôi hiểu ông bí thư mặt đen, lưng hơi còng còng kia
muốn thăm dò tôi muốn gì. Tôi đã đến một số địa phương khá giả, được coi là ăn
nên làm ra. Ở những nơi này người ta không thích đám nhà báo tò mò, thóc mách,
đám này tới chỉ tổ rách việc. Tôi cố ý để cho ông bí thư hiểu tôi chỉ là một
nhà báo công chức, tôi hài lòng với những báo cáo viết sẵn do cán bộ văn phòng
của ông cung cấp, tôi sẽ chỉ đặt cho họ những câu hỏi vô thưởng vô phạt. Ông
chủ tịch cục mịch và hồn hậu thết tôi một bữa thịnh soạn, có thịt thủ và rượu
lậu. Nói tóm lại, tôi tính sẽ làm xong trong một ngày công việc thu thập tài
liệu cho bài phóng sự lấp chỗ trống.
Có những làng nổi tiếng chỉ bởi một
nghề, như làng Đồng Sâm này. Có thể nói ở khắp nước, nơi nào có cửa hàng vàng
bạc là ở đó ta gặp người Đồng Sâm. Dường như Trời dành riêng sự khéo tay trong
nghề chạm trổ trên kim loại cho người làng này, chứ chẳng cho làng nào khác.
Thời chưa cách mạng, người Đồng Sâm thường làm chủ hiệu, có thuê thợ thì cũng
thuê người trong họ ngoài làng, không thuê người ngoài. Rất hiếm khi có người
Đồng Sâm nhận thợ không cùng quê. Bây giờ, thời xã hội chủ nghĩa, không ai được
làm chủ nữa, nhà nước nắm độc quyền kinh doanh vàng bạc, các chủ hiệu đều là
cán bộ nhà nước. Trong các cửa hàng vàng bạc quốc doanh, vẫn người Đồng Sâm
đấy, nhưng là công nhân theo ngạch bậc xí nghiệp quốc doanh. Mặc dầu vậy, ở cái
gốc của nghề tổ, với tư cách làng chuyên một nghề, chủ nghĩa xã hội không làm
cho Đồng Sâm mất đi vị thế một làng giàu. Đi sâu vào làng này, tôi có cảm giác
như đi trong những phố nhỏ ngoại thị Hà Nội - nhà ngói san sát, đường giữa các
xóm lát gạch hoặc tráng xi-măng, trẻ con trong nhà mẫu giáo ăn vận bảnh không
kém con cái viên chức nhà nước trong các trường Mầm Non của thủ đô.
Bằng cách nào người ta giữ được sự giàu
có ấy là câu hỏi không nên đặt ra. Ở Đồng Sâm có hai hợp tác xã, một nông
nghiệp, một thủ công nghiệp. Công điểm của người làm nghề chạm bạc cao hơn hẳn
người làm nông nghiệp, nhưng không có sự chênh lệch trong thu nhập mỗi gia
đình. Họ có mức sống sàn sàn nhau.
- Vào hợp tác xã nông nghiệp cả để mà
chết à? - anh nông dân chủ nhà, với gương mặt chất phác đặc biệt của dân vùng
châu thổ sông Hồng cười vào mặt tôi - Phải phân công phân nhiệm trong mỗi nhà,
ai làm cái gì. Đau đầu lắm. Nhưng phải thế mới được. Phải đi bằng hai chân, như
Đảng dạy, mới có đường sống, đồng chí nhà báo ạ.
Không thể hiểu nổi anh nông dân này: anh
ta ca ngợi Đảng, hay đang giễu Đảng?
Còn đi bằng hai chân là nghĩa thế này:
phải làm cách nào đó để được no, được ấm, thậm chí được sống sung túc, trong
điều kiện ông Đảng, ông nhà nước vẫn hài lòng. Nói thì dễ - đi bằng hai chân -,
chứ trong thực tế làm chuyện đó khó lắm. Hai hợp tác xã - một nông nghiệp, một
thủ công nghiệp - trong một làng phải thông đồng với nhau một cách tài tình
lắm, một cách hài hoà lắm, như trong một dàn giao hưởng, với một chỉ huy có
tài, phải biết tạo ra những báo cáo tuyệt hay và những sổ sách kế toán đâu ra
đó, với kỹ năng của diễn viên rạp xiếc. Tất cả những cái đó là khó hiểu, không
phải đối với một mình tôi. Người nông dân hiểu đảng cầm quyền hơn hẳn giới trí
thức. Họ hiểu: Đảng không quá ngu để biết anh nông dân bịp mình, nhưng phải bịp
sao cho khéo, rồi sau đó kết thúc mỗi màn bịp bằng một bài đồng ca vinh danh
Đảng sáng suốt, Đảng anh minh, là xong.
Người ta biết lắm: trong thời kỳ trị vì
của hai đời tổng bí thư, hai con người khác nhau, không bỏ lỡ dịp chê bai nhau,
thế nhưng cả hai đều nhất quán trong đường lối: bằng mọi giá phải lùa dân vào
các hợp tác xã, để thực hiện cho bằng được bình đẳng xã hội. Nghèo cũng được,
nhưng bình đẳng. Lãnh tụ tối cao nhắc đi nhắc lại: "Không sợ thiếu, chỉ sợ
không công bằng". Người nông dân nhất nhất tuân theo huấn lệnh của các
lãnh tụ đảng, với vẻ mặt hồn nhiên, tin cậy, nhưng sau lưng các vị, họ làm
ngược lại. Mọi người đều sợ thiếu. Mọi thứ có thể mua được đều được mua tuốt để
tích trữ. Anh chủ nhà một đêm của tôi khoe anh có cả chục chậu men Trung Quốc.
"Không có thứ ấy, mừng đám cưới bằng cái gì bây giờ?".
Ta có thể đặt thêm một câu hỏi: vì sao
người ở các địa phương khác lại không đua được với người Đồng Sâm về nghề kim
hoàn? Chắc hẳn trong nghề này cũng có lắm điều bí mật cha truyền con nối. Tất
nhiên rồi, người Đồng Sâm trả lời. Bí mật nghề nghiệp bao giờ chả có, ở đâu chả
có. Nhưng đó là cách giải thích không mấy thuyết phục. Đảng không thích những
cái bí mật ấy. Dưới sự lãnh đạo của Đảng mọi sự đều làm được: từ hố xí hai ngăn
cho đến bom nguyên tử. Bởi vì còn sự độc quyền nghề nghiệp của những phường
hội, thì còn có những lĩnh vực tay đảng không với tới. Thế mà đảng phải chịu
làng Đồng Sâm, mới lạ.
Tôi không thích viết những sự việc không
nhân vật. Không có nhân vật thì mọi sản phẩm văn chương - từ bài báo cho tới
truyện ngắn - đều tẻ nhạt. May, Đồng Sâm có những nhân vật thú vị. Trong hai
ngày ở Đồng Sâm tôi được nghe vô số chuyện đời ở nông thôn của những người ruột
để ngoài da, hoặc những người không thấy cần phải đeo mặt nạ với tôi. Như anh
chủ nhà một đêm của tôi chẳng hạn. Anh là cốt cán của uỷ ban xã, chuyên lo việc
cơm nước tiếp khách cho uỷ ban. Một người khiêm tốn, biết vị trí của mình,
nghĩa là không biết gì về công việc của lãnh đạo. Nhưng anh không đừng được để
không nêu những thắc mắc:
- Tại sao nhà nước lại không muốn có
người giàu, hở đồng chí nhà báo? Người ta giàu thì mặc kệ người ta chứ, có chết
ai đâu? Rỗi hơi mà ganh với nhau. Giàu nghèo có số cả. Mà cũng giàu có gì cho
cam, dân chúng tôi ấy. Toàn giật đầu cá vá đầu tôm thôi. Thành ra có tí của để
ra cũng cứ phải giấu. Còn hơn mèo giấu cứt.
Hoặc:
- Thời nào thì cũng thế. Quyền đi đôi
với lợi. Dễ tôi vào Đảng để ăn rau lợn cho hàng xóm ăn gà à? Có mà điên.
Thế nhưng than phiền thì than phiền, anh
nông dân của tôi không bất bình với mọi sự cấm đoán của Đảng. Anh coi đó là số
phận. Anh ru con bằng hai câu lẩy Kiều:
Bắt phanh trần phải phanh trần
Cho may-ô mới được phần may-ô...
Có lẽ những phóng viên thạo nghề đánh
bóng mạ kền từng tới đây làm phóng sự đã làm cho ông già nghệ nhân cao tuổi
nhất Đồng Sâm khó chịu. Ông nhăn mặt khi thấy tôi loay hoay chọn một góc đẹp để
chụp ông.
- Này bác, tươi lên một tí nào - tôi nói.
Ông già hấm hứ:
- Cái mặt tôi có vậy thôi, chụp làm quái
gì. Ra mà chụp mấy cô xinh xinh kia kìa! Ông nhà báo nào về đây cũng chụp mấy
cô ấy đấy!
Tôi nhìn theo tay ông chỉ. Mấy cô xinh
thật. Trong những bộ cánh diện, màu sắc tươi tắn, được khoác vào cho các nhà
báo chụp ảnh, cô nào cô ấy tươi hơn hớn, gái Hà Nội không ăn đứt. Khốn nỗi, các
cô chỉ là thợ học việc, được giao làm những sản phẩm hàng loạt. Các cô lại
không có hai bàn tay nhàu nát những nếp nhăn tuyệt đẹp của ông già nghệ nhân.
Hai bàn tay ấy, với làn da xạm và cứng như giấy bao xi măng, cần mẫn và điêu
luyện, ngày lại ngày làm ra vô số kể những tuyệt phẩm trang trí, trông mà mê.
Đến khi tôi dí sát ống kính vào hai bàn
tay của ông thì ông già gắt lên:
- Ông này làm cái gì vậy?
Tội nghiệp cho tôi, ông già không biết
rằng tôi rất muốn thể hiện cái đẹp của hai bàn tay ấy. Tôi lại không có một ống
kính chuyên dụng.
Xong việc, tôi đến phòng bưu điện huyện
để gọi về Hà Nội.
Thư ký toà soạn đặt một số câu hỏi, bao
giờ cũng thừa, bao giờ cũng tràn đầy những lời động viên quen thuộc, rồi giục:
- Tuyệt lắm. Ông về ngay đi.
Tôi nói tôi cần tìm hiểu thêm một số
tình hình địa phương, ở đây có nhiều chuyện thú vị, tôi sẽ ở lại vài ngày rồi
về. Rất có thể sẽ có thêm bài đấy. Ở đầu dây đàng kia, thư ký toà soạn cằn
nhằn, nhưng vui vẻ giục tôi về cho mau. Tôi cười thầm, cúp máy giữa câu. Thỉnh
thoảng cũng phải làm cao một tí người ta mới nể.
Thế là tôi lại có thời giờ để lang thang
lần nữa trong cái tỉnh lỵ của vùng châu thổ. Hoá ra ở cái tỉnh nhỏ bé này cũng
có một quán cà phê không đến nỗi nào, do một người Hà Nội tản cư từ cái thời
toàn quốc kháng chiến xa lơ xa lắc lập ra. Thoạt đầu, trong cuộc tiêu thổ kháng
chiến, tỉnh lỵ bỏ hoang, quán cà phê của ông tọa lạc tại thị trấn Đống Năm nổi
tiếng một thời, hết chiến tranh nó mới được chuyển về tỉnh.
Ông chủ quán, tóc bù xù như một nghệ sĩ,
là người mau miệng. Ngồi ngay xuống trước mặt khách, bất kể khách có muốn hay
không, ông ta than van về nỗi buồn tỉnh lẻ, rằng ở đây chán đến nẫu người đi
được, rằng nếu không tại cái số, thì lẽ ra ông đã về Hà Nội ngay từ khi hoà
bình lập lại kia, chứ ở lại cái xó này làm quái gì. Khốn từ ngày "bùng nổ",
những đứa con cứ sòn sòn ra đời, đứa nọ sau đứa kia một năm, giờ cả thẩy đã
ngót một chục, biết làm sao?
Tôi nhâm nhi ly cà phê, lơ đãng nghe
những mẩu tâm sự vụn của chủ quán. Cùng nghe với tôi, cũng lơ đãng như thế, là
một con mèo Xiêm lông xù. Nó nằm trên đùi ông chủ, mắt lim dim, với vẻ bất cần
đời. Những con ruồi béo mập bay vù vù. Trong cái quán thông thống không có lấy
một ngọn gió. Ngồi uống cà phê mà nghe mồ hôi chảy thành dòng bên trong áo sơ
mi.
Buổi chiều, trên đường ra bến để đáp
ca-nô đêm về Hà Nội, tôi mới sực nhớ là phải tới thăm anh bạn thân thời học
trò, nghe nói bây giờ làm bác sĩ ở ngay thị xã. Cái nóng đã làm cho đầu tôi mụ
mẫm. Tôi quên bẵng dự định đó. Anh bạn này là người đã trình bày bìa sách cho
tác phẩm đầu tay của tôi, một vở kịch có cái tên khá kêu là "Lối
Thoát".
Tôi viết kịch chứ không viết văn xuôi là
do tình cờ. Nó xảy ra do cuộc gặp gỡ với một ông nhà văn, nổi tiếng ở Liên khu
IV kháng chiến nhờ mấy vở kịch loại xoàng, như sau này tôi đánh giá. Hồi đó,
tôi đang học tại trường Nguyễn Thượng Hiền từ Ninh Bình tản cư vào. Nhà trường
vốn yêu văn hoá, mời ông nhà văn tới diễn thuyết. Được gặp một nhà văn bằng
xương bằng thịt, lũ học trò chúng tôi rất háo hức. Vui chuyện, tôi mới tò mò
hỏi ông về bếp núc nghề văn. Ông nhà văn còm nhom vỗ vai tôi, nhìn vào mắt tôi
mà cười nhạt: "Ha, chú mày cũng muốn viết văn đấy hả? Không dễ đâu. ông
tướng ạ. Viết văn không phải là luộc rau, hay nấu cơm. Để làm được việc đó cần
phải có tài. Khốn nỗi, lại không thể kiếm tài như kiếm củi được". Các cô
bạn học của tôi nghe thấy câu trả lời ấy cười ré lên. Ngày hôm ấy tôi tự hứa
với mình sẽ phải viết một cái gì đó ra trò để cho nhà văn cao ngạo kia biết tay.
Giấu mọi người, tôi cặm cụi viết, ngoài
vườn, trong xó bếp. Vở kịch rồi cũng xong. Giám đốc một nhà xuất bản còn sót
lại của thời cộng hoà đầu tiên tản cư về phố Rừng Thông ở thị xã Thanh Hoá bị
san bằng trong thời tiêu thổ kháng chiến tiếp tôi. Tôi nói đây là tác phẩm của
anh tôi, một thương binh nằm trên bệnh viện quân y Bái Thượng, giao cho tôi đưa
ông. Ông ta hờ hững nhận bản thảo, hẹn tôi tháng sau đến. Tôi chờ từng ngày cho
hết một tháng. Gặp tôi, lần này ông vồ vập, nói sẽ in, trả nhuận bút hẳn hoi.
Vở kịch được nhiều đoàn diễn, đã thế lại
có tiếng vang hơn hẳn những vở của ông nhà văn kênh kiệu.
Thái, anh bạn mà tôi đang nói tới, họa
sĩ tờ báo tường lớp Bảy A, nhiệt tình giúp tôi vẽ bìa. Thái còn là nhà phê bình
đầu tiên của tôi. Tôi chịu ơn anh nhiều về những ý kiến giúp tôi hoàn thành vở
kịch. Trong thời học trò của chúng tôi Thái thường được điểm cao về môn văn.
Khi nhận bản thảo kèm theo bìa sách đã vẽ sẵn, ông giám đốc nhà xuất bản gật gù
khen người vẽ có tài, hẹn sẽ đặt anh vẽ. Nhưng rồi chẳng bao giờ ông ta dùng
tới cái tài của Thái cả. Nhà xuất bản không có nhiều sách để in, độc giả thì dễ
tính, ông giám đốc tự trình bày các ấn phẩm của mình bằng màu chế từ hai loại
thuốc sốt rét quinacrine và thuốc ghẻ lở mercurcochrome.
Tôi tìm được nhà Thái không mấy khó
khăn. Thị xã vẻn vẹn hơn chục phố, mỗi phố dài chưa nổi trăm mét, với vài cột
điện xiêu vẹo. Những ngôi nhà tỉnh lỵ, phần lớn còn lợp rạ, nhưng cũng được
đánh số bên chẵn bên lẻ hẳn hoi, y như ở Hà Nội vậy.
Nhà Thái là một ngôi nhà nhỏ, tường xây,
cửa đóng im ỉm, nằm trong một mảnh vườn tí xíu, cỏ xước, cỏ mần trầu mọc đầy mấy
luống rau xơ xác.
Tìm mãi không thấy chuông đâu, chuông
bấm không, chuông giật cũng không, tôi đành gọi ông bạn theo cách nhà quê vậy,
nghĩa là cứ đứng ở đấy, ngay ở cổng, mà hò đò sông cái:
- Thái ơ...i! Thái ờ. . i...!
Sau một lát yên lặng, có dễ tới năm
phút, bỗng từ trong nhà bay ra một tràng tiếng khóc đứt quãng. Rồi cánh cửa bật
mở, một bà lão tất tưởi lao ra.
Bà lão còm cõi đi chân đất, nước mắt
giàn giụa, lúng túng hồi lâu mới mở được hai cánh cổng. Vừa lập cập mở khoá, bà
vừa kể lể:
- Ối anh ơi! Anh bây giờ mới đến, thì em
nó đã mất rồi...Ới anh ơi là anh ơi! Sao anh chẳng đến sớm với em?
Tôi nhận ra bà, mẹ Thái. Bà ôm chầm lấy
tôi. Những giọt nước mắt lã chã rơi xuống ngực áo tôi.
Cái cách bà hờ tôi như thể tôi đã chết
rồi, làm tôi lạnh toát cả người.
Tôi ôm lấy mẹ bạn. Bên dưới bàn tay tôi
xương bả vai bà gồ lên, không còn chút thịt nào. Tôi không gặp bà kể từ ngày
tôi xa bạn tôi. Mà chúng tôi xa nhau cũng đã hơn chục năm rồi. Khi bà từ trong
nhà bước ra, tôi không nhận ra, giờ đây cũng phải định thần mới tìm thấy những
nét quen ngày trước. Bà úp mặt vào ngực tôi, dựa hẳn vào người tôi, nhẹ bỗng.
- Sao? Bác bảo sao?
Bà lão nắm lấy áo tôi, lôi tuột vào nhà.
Trên ban thờ, Thái nhìn xuống tôi bằng
cặp mắt hiền từ, có vẻ lơ đãng.
Những bức ảnh thờ bao giờ cũng thế, cái
nhìn của người chết bao giờ cũng hiền từ, bao giờ cũng trầm tĩnh, cũng đầy vẻ
suy ngẫm, mặc dầu khi còn sống chưa chắc họ đã là như thế.
Nhưng với Thái thì cái nhìn đúng là của
anh. Anh hiền, như chúng ta thường nói, như đất. Anh sẵn sàng giúp đỡ mọi
người, hay nói cho đúng hơn, sẵn sàng hầu bạn bè. Khi có ai cần tới anh, chẳng
bao giờ anh từ chối.
Tôi nhớ những buổi chiều lộng gió bên
dòng sông Chu xanh ngắt, tôi và Thái ngồi dưới
vệ đê với hai cái cần câu bằng cật nứa. Cá sông rất ít cắn, chúng tôi tâm sự
với nhau đủ điều dưới con mắt canh chừng của ông lão hành khất, một thời là ông
đồ nho. Ông đồ ăn mày sống trong một cái điếm canh đê mốc thếch. Bao giờ cũng
vậy, thấy chúng tôi ra sông là ông vạch cái chiếu nát thay cánh cửa ngó ra. Ông
biết, nếu chúng tôi gặp may thể nào chúng tôi cũng dành cho ông mấy con bống
nhỏ, hoặc mấy con cá bò loang lổ. Ông có thừa thời giờ để câu, nhưng ông không
câu, ông không có cái cần câu nào, dù với lưỡi câu thẳng của Khương Tử Nha .
Ông đã thôi chờ thời, nếu trước kia ông đã chờ. Ông đã đánh mất cái thời của
ông, vĩnh viễn. Ông đã quá già để mà chờ đợi.
Tôi đứng trước bức chân dung Thái, đăm
đăm nhìn anh, nhớ tới cái thời đã xa lơ xa lắc của chúng tôi. Trong ảnh, anh
vận vét-tông, thắt cà-vạt, đứng đắn, chững chạc, ra dáng một ông bác sĩ, cho dù
là bác sĩ tỉnh lẻ. Trước kia, anh là một chàng trai mặt quắt, đen đủi, xấu xí.
Bà mẹ Thái đã thôi khóc, nhón chân lấy
một nén nhang trên ban thờ, run rẩy đưa cho tôi. Tôi đánh diêm, châm ba nén
nhang. Khi tôi chắp tay dâng nhang cho bạn tôi, bà đứng sau lưng tôi, thấp bé
và lặng lẽ, như một cái bóng. Tôi nghe sau mình tiếng nức nở khe khẽ, như tiếng
vỗ cánh của một con chim non. Khói nhang nhè nhẹ quẩn quanh chân dung người đã
khuất.
Tôi chợt nhớ câu nói của Thái trong một
chiều đi câu:
- Cậu tính, người ta chết rồi, liệu có
còn gì không?
- Chết là hết, còn gì.
- Còn chứ. Linh hồn con người không mất
ngay một lúc cùng với thể xác. Người theo Ấn Độ giáo tin như thế. Họ đưa ra
những chứng cớ khẳng định điều đó. Rằng linh hồn vẫn tồn tại sau khi con người
chết đi...
Liệu có một cuộc đời thứ hai cho bạn tôi
không?
Cuộc đời Thai là một cuộc đời không ra
gì. Mẹ anh, một cán bộ phụ nữ của những ngày cách mạng, trở thành hội trưởng
một tổ chức phụ nữ tỉnh hay thị xã gì đó của tỉnh này. Đến khi chiến tranh bùng
nổ, Thái Bình mất đất, bà lật đật dắt hai đứa con chạy vào Thanh Hoá. Không
tiền, không của cải, bà chỉ biết làm một công việc thuộc về buôn bán mà bất cứ
người nông dân nào cũng biết, nhưng không phải ai cũng làm, là hàng xáo. Đêm
đêm bà và hai đứa con - một trai một gái - lăn lưng ra xay thóc, giã gạo, giần
sàng để hôm sau mang ra chợ bán.
Rồi tai hoạ ập đến. Một hôm, giữa trưa,
nghe ồn ào ngoài ngõ, tôi chạy ra thì thấy mẹ bạn tôi, hai tay bị trói trước
bụng, đi giữa một toán dân quân mặt đỏ gay. Mái tóc xổ tung, bà lếch thếch đi
giữa hai hàng dân làng tò mò, vừa đi vừa giơ hai tay bị trói lên mà gào
"Ới Cụ Hồ ơi, Cụ ở trên trông xuống mà xem tôi đi theo Cụ bây giờ tôi bị
người ta hành hạ thế này đây, ới Cụ Hồ ơi!". Mẹ tôi cũng chạy ra, xông đến
trước đám dân quân: "Bà ấy tội tình gì mà các anh trói bà ấy thế kia?".
Đám dân quân sừng sộ xông lại. Chúng tôi hoảng hồn, lôi mẹ tôi về nhà. Lúc bấy
giờ là vào khoảng giữa năm 1953, Liên khu 4 đang phát động cuộc giảm tô giảm
tức. Khắp nơi, chỗ nào cũng có những cuộc bắt bớ, đấu tố. Đêm đêm loa vang vang
kêu gọi nông dân vùng lên đánh đổ cường hào gian ác.
Buổi tối, tôi đến nhà Thái. Hai anh em
bạn tôi đang ăn khoai dưới ánh trăng. Trong nhà không có ánh lửa.
- Người ta bảo bà cụ mình là gian thương
- Thái nói - Họ giam bà cụ trong chuồng trâu.
"Gian thương" là tên chính
quyền đặt cho những người buôn lậu giữa vùng quân Pháp đóng, gọi là vùng tạm bị
chiếm, và vùng kháng chiến, gọi là vùng tự do. Những người buôn lậu ngày ấy rất
đông đúc. Họ buôn thuốc tây, đá lửa, kính mát và trăm thứ bà dằn khác. Và tất
nhiên, họ trốn thuế. Nhưng bà cụ Thái làm hàng xáo, đâu có ở trong diện ấy.
Được coi là gian thương còn may. Sau lại
có tin người ta phát hiện bà có chân trong Quốc dân đảng nữa mới khiếp. Đó là
lời buộc tội nặng nhất, đáng sợ nhất. Vào thời ấy, người ta muốn giết ai thì
chỉ việc đổ cho người ấy là Quốc dân đảng, hay Đại Việt, là xong. Đến nỗi, cụ
thân sinh một anh bạn tôi chúng tôi, nhà giáo, chẳng hiểu sao cũng bị bắt, bị
buộc tội là đảng viên Quốc dân đảng. Ông treo cổ trong một cái chuồng bò thay
nhà giam, để lại bức thư tuyệt mệnh :"Tôi hoàn toàn vô tội. Tôi trung
thành với Đảng. Tại sao Đảng đối với tôi thế này? Hồ Chí Minh muôn năm!"
Bà mẹ Thái rồi cũng được thả ra sau một
tuần, nhờ sự đấu lý mềm mỏng nhưng kiên nhẫn của mẹ tôi và "các bà tản
cư" với chính quyền xã.
Từ đó bà như người mất hồn. Công việc
trong tay bà trước kia chạy veo veo, bây giờ thì đuểnh đoảng, lúc sai chỗ này,
lúc hỏng chỗ khác. Thế là mọi việc đổ lên đôi vai cô bé, em Thái. Lại quang
gánh lên vai, như mẹ, từ tờ mờ sáng con bé cắm cúi đi các chợ mua mua bán bán,
đêm đêm lủi thủi giã gạo, giần sàng, nuôi bà mẹ lẩn thẩn với ông anh đi học.
Con bé cứ quắt lại, không tài nào phổng phao lên được trong tuổi dậy thì.
- Sao lại ra thế này hở bác? - tôi hỏi
bà cụ.
Bà nhìn tôi chằm chằm, cái nhìn mơ hồ,
chú mục đấy mà không thấy. Cuối cùng, câu hỏi của tôi rồi cũng luồn được vào
vùng ý thức của bà.
Đôi môi nát những nếp nhăn run run, mấp
máy:
- Anh bảo sao?
- Thái vì sao mà chết? Bệnh gì?
Bà cười mếu máo, nhe hàm răng khấp khểnh
cái còn cái mất:
- Có bệnh gì đâu, anh!. Em nó khoẻ lắm.
- bà nắn cánh tay tôi - Nó khoẻ có dễ còn hơn anh đấy. Trước hôm em nó mất, nó
còn lộn cho tôi cả cái vườn đàng trước đấy. Nó tính trồng cà, dền cơm, với rau
đay nữa, bảo để mẹ nấu canh cua ăn cho mát ruột. Bây giờ cỏ mọc um tùm. Tôi
mặc. Còn ai nữa mà làm?
Bà nấc lên. Rồi chợt nhớ ra phải hỏi
thăm tôi một câu:
- Anh được mấy cháu rồi?
- Thưa bác, hai. Một trai, một gái. Vợ
Thái đâu?
- Nào đã có. Khốn nạn, tôi giục nhiều
rồi, dưng mà em nó kén. Đám này chê đẹp quá, lấy về để mà mọc sừng à, đám kia
chê xấu quá, đi bên cạnh ngượng mặt. Mãi mới ưng được một đám. Con bé không
xinh, nhưng hiền hậu, tốt nết, ngoan ơi là ngoan. Thế mà đùng một cái...con tôi
chết! Ối con ơi là con ơi!
Bà lại khóc oà, người đung đưa như lên
đồng. Vừa lúc Nga, cô em gái bạn tôi, từ nhà chồng về thăm mẹ. Cũng như mẹ cô,
nhìn thấy tôi là cô bổ đến, ôm chầm lấy tôi, gào lên những tràng thảm thiết.
Tôi nhìn Nga, cảm thấy lòng quặn đau nỗi buồn mênh mông trước cảnh vật đổi sao
dời. Cô gái mỏng mày hay hạt ngày xưa bây giờ là một người đàn bà xồ xề, gương
mặt thanh tú trở thành hốc hác, với làn da bủng beo.
Đến khi đã bình tĩnh lại, cô mới thổn
thức kể cho tôi nghe về cái chết của anh trai. Thì ra đó chính là cái chết mà
trong cơn gà gật trên ca-nô tôi đã được nghe.
Đầu đuôi là thế này.
Hôm ấy, Thái được ông bác sĩ giám đốc
bệnh viện tỉnh rủ đi một huyện xa để thăm một bệnh nhân, hình như có bà con với
ông ta. Từ ngày được Bộ cấp cho một cái com-măng-ca để đi công tác, ông giám
đốc rất chăm đi thăm bệnh nhân ở các huyện xa thị xã. Lần này, ông đặc biệt
muốn có Thái đi cùng, không rõ vì đó là một ca khó chẩn đoán, hay vì ông muốn
chưng diện với bà con, bởi Thái là bác sĩ có tiếng trong tỉnh, bệnh nhân nào
được bác sĩ Thái khám cho là vinh dự.
Khi trở về, ông giám đốc bảo Thái xuống
xe để đánh xi-nhan cho ông ta cho xe vào ga-ra. Tai nạn xảy ra vào phút đó. Lẽ
ra, khi xe đã lùi gần tới, phải đạp phanh thì ông ta lại nhấn ga. Cái xe chồm
lên tông cả hậu xe vào bạn tôi, ép anh vào tường. Khi được đưa vào phòng cấp
cứu, Thái vẫn còn sống. Anh chỉ còn nói được một câu:
- Mẹ ơi, con thương mẹ quá!
Bà hộc tốc chạy vào thăm con, ngất ngay
tại chỗ. Người ta tiến hành cấp cứu bà ngay bên giường người con trai hấp hối.
Thái chết đúng vào đêm trước ngày anh
cưới vợ. Cô dâu và họ nhà gái ngồi chật một xe ca từ Hải Phòng về để tổ chức
đám cưới thì lại phải dự đám ma. Cô dâu chưa kịp mặc áo cưới đã phải mặc áo
tang.
Nga dẫn tôi ra thăm mộ Thái. Trên ngôi
mộ mới cỏ bắt đầu mọc lưa thưa. Rải rác bên những búi cỏ là những viên sỏi
trắng.
Tôi thắp nhang cho Thái, trong khi Nga
tỉ mẩn ngồi xếp lại những viên sỏi.
- Trẻ trâu chúng nó phá quá! Chị Hương,
vợ anh Thái, không quay lại Hải Phòng cùng với nhà gái mà ở lại đây cả tháng
với mẹ em. Không biết chị ấy đi kiếm sỏi ở đâu tha về để xếp thành tên hai
người, nhưng chỉ được vài bữa là trẻ trâu lại xoá sạch. Chẳng hiểu chúng nó lấy
sỏi để làm gì, đánh rải gianh hay để ném nhau?
Tôi nghĩ: không phải trẻ trâu, thời gian
sẽ xoá đi tất cả.
Cuộc đời là vậy. Tất cả rồi như vậy. Như
vậy trong sự hiện hữu của ta, như vậy trong sự lãng quên những người khác, từng
hiện hữu như ta.
- Tại sao hôm sau đã cưới mà Thái còn đi
với ông giám đốc làm gì?
- Em cũng không hiểu. Ở nhà đã lo đủ cả:
trang hoàng phòng cô dâu chú rể, tiệc mặn, tiệc ngọt mẹ em đã nhờ người ta, đâu
vào đấy rồi. Nói vậy, chứ cũng còn khối việc phải để mắt đến, phải kiểm tra
lại...Lẽ ra, anh em nên có mặt.
- Anh ấy cả nể?
- Cũng không hẳn thế. Anh còn nhớ vụ mẹ
em bị bắt trói không?
- Nhớ.
- Từ hồi ấy tính tình anh em thay đổi
hẳn. Thỉnh thoảng anh ấy lại nổi cơn bướng, cả với mẹ em anh ấy cũng thế...Anh
ấy hay tư lự, ít nói lắm, nhưng em rất sợ khi anh ấy nổi khùng. Người hiền thì
hay cục.
- Anh ấy có nổi khùng lần nào ở bệnh
viện không?
- Không. Anh Thái em có tiếng là hiền
lành.
- Anh ấy nể ông giám đốc lắm à?
- Cũng phải nể chứ. Với lại tính anh ấy
thế - không muốn mất lòng một ai.
Ở mọi nơi, tôi đều gặp cái sợ, được che
giấu bằng một từ dễ nghe hơn - nể nang.
- Ông giám đốc rồi sau có việc gì không?
- Ông ấy được chuyển lên Hà Nội, làm phó
giám đốc một bệnh viện lớn.
- Tại sao lại như thế nhỉ? Ít nhất thì
ông ta cũng phải chịu một hình thức kỷ luật nào chứ? Cứ thế mà xong được à?
Nga nhìn ra xa, thở dài:
- Ông ta, nói cho công bằng, đâu có cố
ý...
- Thì cũng là khuyết điểm nặng chứ? Phải
có hình thức kỷ luật nào chứ?
- Tai nạn thôi, anh ạ. Gia đình em cũng
không khiếu nại. Ông ta không phải người xấu. Anh Thái em mất rồi, người ta mới
biết bằng lái ông ấy cũng chẳng có, được cậu tài xế dạy cho mấy bữa là ngồi lên
lái bừa. Người như ông ấy, vừa làm giám đốc bệnh viện, vừa có chân trong tỉnh
uỷ, lấy bằng lúc nào mà chẳng được, không cần thi cũng có bằng. Nhưng ông ấy
chủ quan, cho rằng chẳng công an nào hỏi mình.
- Không ai đặt vấn đề kỷ luật với ông ta
cả?
- Không. Trong tỉnh uỷ cũng có người
khuyên mẹ em khởi tố đấy, mẹ em không nghe. Đàng nào thì anh Thái cũng mất
rồi...Mình thiệt, còn với người khác thì đây lại là cơ hội để hất cẳng nhau.
Mặt trời xuống, đỏ như máu. Mấy con
chuồn chuồn lửa bay lượn trên đầu chúng tôi. Cái nóng ban ngày được gom lại vào
cuối ngày dường như cố bùng lên lần chót làm không khí loãng hẳn ra.
- Cô được mấy cháu rồi? - tôi hỏi Nga.
- Ba. Hai trai, một gái.
- Chú ấy làm nghề gì?
- Thợ chữa máy, anh ạ.
- Lương lậu khá không?
- Lương thì nói làm gì, anh! Bổng mới là
chính. Sống cũng tạm được. Anh có biết câu: "trâu đen ăn cỏ, trâu đỏ ăn gà
không"?
- Biết.
- Nhưng dễ hư hỏng lắm, anh ơi. Nông dân
có cái máy cày, họ sợ hỏng lắm, họ có biết máy móc gì đâu...Họ chiều thợ máy
như chiều vong. Không phải chỉ có gà, còn rượu nữa. Nghiện chẳng mấy chốc đâu.
Nga ở lại nhà mẹ làm cơm đãi tôi. Người
chồng dắt con đến, mặt đỏ phừng phừng. Thị xã nhỏ, nhà có khách thì hàng xóm
cũng biết. Trong bữa, anh ta uống như hũ chìm. Lại còn luôn miệng giục tôi:
- Kìa, ông anh, đưa cay nữa đi chứ! Mấy
khi anh lại nhà...
Nga cúi mặt xuống, thở dài.
Ba đứa trẻ gắp luôn tay, chúng không để
lỡ dịp được ăn những món ngon trong bữa cơm thịnh soạn, không phải ngày nào
cũng có.
Mẹ Thái ăn chậm chạp trong im lặng. Bà
lão nhai trệu trạo bằng mấy cái răng hàm còn lại, răng cửa đã mất hết. Tôi có
cảm giác bà lão nghe thấy tất cả, hiểu rõ tất cả những gì đang diễn ra quanh
mình, và tất cả những cái đó không còn làm bà buồn hay vui nữa, tất cả chỉ là
nguyên liệu cho bộ máy suy ngẫm câm nín vẫn tiếp tục làm việc theo quán tính.
Ngoài sự suy ngẫm, bà không còn sức để làm gì hết, kể cả đưa ra một lời khuyên
ông con rể đang trôi tuột vào biển say.
Đêm đến, bà lão buông màn cho tôi trên
cái giường của người con trai không còn nữa. Từ bộ giát, manh chiếu, cho tới
cái màn, bốc lên mùi ẩm mốc lưu cữu. Tôi nghe tiếng bà lão thổn thức trong mơ,
bên kia vách.
Sáng ngày ra bà thì thầm bảo tôi:
- Này, cái Nga nhà tôi ăn tiền của lão
giám đốc đấy. Lão ấy lén lút đưa tiền cho cái Nga để ỉm vụ này đi. Con Nga thẽ
thọt với tôi: "Thôi, mẹ ạ. Đàng nào thì người nhà mình cũng chết rồi.
Người ta có đi tù thì anh con cũng chẳng sống lại được nào". Thời buổi bây
giờ thế đấy. Nó thương anh chẳng bằng thương tiền...
- Thế bác bảo sao?
- Thì còn bảo sao nữa? Nó nói phải. Nhà
nó nghèo. Người ta lại có nhiều tay chân. Cũng phải giữ cho chồng nó thí.
Trở về Hà Nội ngày hôm sau, tôi viết
quàng quấy cho xong, như cách rũ nợ, bài báo về nghề chạm bạc cổ truyền. Những
nhân vật thú vị ở Đồng Sâm nằm liệt trong sổ tay của tôi.
Tôi hoàn toàn không hài lòng về bài báo.
Nó chỉ là cái để lấp chỗ trống. Nhưng thư ký toà soạn hài lòng: bài báo không
chê vào đâu được, đứng về mặt lập trường. Chắc chắn nó sẽ không bị
"trên" gạt bỏ. Số báo của chúng tôi sẽ ra đúng hạn.
Cái chết của Thái trở thành nỗi ám ảnh
trong tôi. Tôi không nghĩ được về điều gì khác. Tôi nghĩ thể nào tôi cũng phải
viết về cái chết của bạn.
Câu chuyện tôi vừa kể là một sự việc.
Tuỳ theo cách ta nhìn, sự việc mang hình dạng này hoặc hình dạng khác. Và cách
lý giải nó cũng khác. Rõ ràng có một tai nạn đã xảy ra. Nhưng có một cái gì hơn
là một tai nạn nằm ở đó. Một cái gì không ngẫu nhiên, hoặc không hoàn toàn ngẫu
nhiên.
Nửa năm sau, tôi bắt đầu viết truyện
ngắn về cái chết của bạn mình. Có vẻ đó là một truyện dễ viết - chất liệu đã có
sẵn, đầy đủ, mà là chất liệu không tồi. Ấy thế mà cặm cụi viết tới lần thứ ba
rồi, truyện vẫn cứ tẻ ngắt. Tôi vứt đấy cả năm, rồi viết lại. Không phải một
lần. Truyện ngắn vẫn không thành. Cho đến lúc tôi hiểu ra rằng nó không thể
thành được chừng nào tôi còn có mưu toan giải thích cái chết của bạn mình.
Đàng sau cái chết định mệnh thấp thoáng
bóng dáng của một cái gì đó tồi tệ hơn. Cái gì đó ấy đã gây ra bi kịch.
Thái sợ, tôi nghĩ. Nếu không sợ, bạn tôi
đã dám từ chối chuyến đi định mệnh. Tôi biết tính bạn. Anh chỉ bắt đầu biết sợ
từ khi nhìn thấy sức mạnh vô tình của bạo lực bắt nguồn từ ngu xuẩn.
Nhưng không phải nguyên nhân chỉ có thế.
Không đơn thuần là thế.
Tôi tìm cách giải thích cội nguồn những
bi kịch tương tự, chúng rất nhiều trong những năm ấy, nhưng không tìm ra. Hoặc
tìm ra quá nhiều. Không có cách giải thích nào làm tôi thoả mãn. Tôi mơ hồ cảm
thấy mình sai lầm ở chỗ nào đó, trong cả cách nhìn lẫn trong cách lý giải sự
việc. Cái chết của Thái là một sự việc thoạt trông thì đơn giản, nhưng quan sát
kỹ thì thấy nó là một sự kiện đa diện, đa tầng, và không thể có một kết luận
đơn giản.
Rốt cuộc, tôi quyết định chỉ kể lại câu
chuyện. Như là một ghi chép về một chuyến đi đáng nhớ trong đời làm báo. Rất có
thể nó sẽ có ích cho ai đó với tư cách chất liệu. Hoặc một bức tranh ghép vụng
về, trong đó người ta có thể thấy thấp thoáng bóng dáng một thời đại.
Tôi cảm thấy mình bất lực. Tôi không thể
làm kỹ sư tâm hồn, như các vị làm công tác tuyên giáo thường tâng bốc những
người làm nghề cầm bút. Mà nói gì kỹ sư, đến thợ tâm hồn cũng không xong.
Tôi không nghĩ rằng câu chuyện được viết
ra lần này sẽ tốt hơn. Nhưng không viết thì tiếc.
Vì không biết cách viết tốt hơn, tôi
viết đúng những gì tôi đã thấy.
Vũ Thư Hiên
(FB Vũ Thư Hiên)
Nhận xét