4616. Bài luận gây xôn xao giới học thuật của nam sinh 18 tuổi
Bài luận gây xôn xao
giới học thuật của nam sinh 18 tuổi
13/08/2016 14:56
GMT+7
![]() |
Nguyễn Tiến Thành - tác giả bài luận về bức họa "The Chuyên Hà Nội - |
Nguyễn Tiến Thành – nam sinh vừa tốt nghiệp Trường THPT Chuyên
Hà Nội – Amsterdam
là tác giả của bài luận đạt giải Nhất cuộc thi Writing Prize do tờ The Atlantic tổ chức thường niên.
Bài luận của Thành được đánh giá cao về
cả hình thức thể hiện lẫn quan điểm được đưa ra khi phân tích bức bích họa “The School
of Athens ” nổi tiếng của họa sĩ, kiến trúc sư
người Ý Raphael.
Aristotle thì trần thế, trong khi Plato lại ở
một thế giới khác. Các nhà tư tưởng thì trần tục, nhưng kiến trúc lại là của
nhà thờ Thiên Chúa giáo. Những nghệ sĩ vĩ đại nhất thời kỳ Thịnh Phục Hưng như
Michelangelo, Leonardo, Bramante đã được trộn lẫn cùng những bộ óc vĩ đại nhất
của Hy Lạp cổ đại. Ánh sáng tràn ngập bức bích họa, ánh sáng của thời đại hồi
sinh cổ điển, của chủ nghĩa nhân văn, của sự giải hòa tinh thần và trí tuệ. Ban
đầu, tôi tin rằng Trường học Athens có thể chỉ được người châu Âu
thời kỳ Phục hưng hiểu như một sự tái khám phá vẻ vang về truyền thống phương
Tây cổ đại. Nó có giá trị gì cho một người Việt Nam như tôi – một người lớn lên
trong một thời đại khác, một nền văn hóa khác và một hệ thống giáo dục khác?
Tuy nhiên, khi nghiên cứu kỹ hơn, tôi nhận thấy bức họa đại diện cho một tư
tưởng về học tập: không ngừng nghỉ, phản biện công khai, bước qua cả những ranh
giới về vật chất, văn hóa và kỷ luật. Gây tiếng vang từ thời Athens cổ đại, qua
nước Ý thời Phục hưng tới Hà Nội hôm nay – nơi tôi đang sống, tư tưởng được mô
tả trong Trường học Athens của Raphael đã lấy lại một niềm hi vọng, rằng bất chấp những hạn
chế về văn hóa và chính trị thì tình yêu dành cho tri thức sẽ thắng thế.
Tiêu đề "Trường học Athens " là một sự che giấu tầm nhìn rộng mở của Raphael về việc học
tập. Biểu ngữ trên bức họa được vẽ từ năm 1509 đến năm 1511 theo đề nghị của
Giáo hoàng Julius II này là “Causarum Cognitio”. Với quan điểm này, Raphael dường như ám chỉ
rằng thứ kết nối các nhân vật không phải là ngôi trường hay danh tiếng của họ,
mà là nhu cầu chung trong việc tìm kiếm tri thức và sự khôn ngoan (nhu
cầu “hiểu tại sao”). Tác phẩm này không chỉ là một
lời ngợi ca các nhà tư tưởng vĩ đại thời cổ đại giống như một lời tán dương bản
thân quá trình học tập.
Raphael đã chuyển tải đời sống của trí óc
thông qua các hoạt động thể chất. Ngày nay, chúng ta đang có xu hướng nhìn nhận
quan niệm gắn kết trí tuệ là một thứ nghiễm nhiên, nhưng quay trở lại đầu thế
kỷ 16, nó lại là một cuộc cách mạng. Theo Glenn W. Most trong “Reading Raphael: The School of Athens
and Its Pre-Text”, theo truyền thống nhân cách
hóa 7 môn “liberal art” trong hội họa, triết học thường được miêu như một người
phụ nữ lý tưởng hóa được gắn vào cạnh sườn bởi các triết gia nam. Mặc dù ám chỉ
đến truyền thống này bằng cách vẽ hình ảnh một phụ nữ ở phía trên cao bức bích
họa, nhưng Raphael đã tách biệt hoàn toàn nhân vật này với khung cảnh trung
tâm, để cho Plato và Aristotle thống trị. Trong khi các học giả tập trung vào
sự tương phản và cân bằng giữa Plato và Aristotle – mọi thứ từ cử chỉ bàn tay
tới màu sắc trang phục, thì thứ gây ấn tượng nhất với tôi là quyết định của Raphael
trong việc không nhấn mạnh vào sự nhân cách lý tưởng hóa kiến thức, mà nhấn
mạnh vào những con người trần tục đắm mình trong quá trình tìm kiếm tri thức
thông qua diễn giải và tranh luận.
Thực tế là, trong khi việc nhận diện mỗi
nhân vật rất thú vị, thì tôi cũng rất ngạc nhiên về sự đa nguyên và tính toàn
diện trong tầm nhìn của Raphael về học tập. Chỉ có khoảng 1/3 nhân vật tới từ Athens cổ đại, 2/3 còn lại sống rất xa Athens , hoặc tới từ những thời đại khác. Thậm
chí Raphael còn đưa vào bích họa cả các nhà tư tưởng từ bên ngoài phương Tây,
như Zoroaster –
một nhà tiên tri tới từ Ba Tư cổ đại, Averroes – một học giả Hồi giáo thời Trung cổ,
cũng là một thông dịch viên triết học của Aristotle.
Hai nhân vật này cũng thách thức những hiểu
biết phổ biến rằng các nhà tưởng có thể được chia tách rõ ràng dọc theo trục
chủ nghĩa tư tưởng giữaPlato và Aristotle. Averroes là một nhà vật lý, nhà thiên văn
học và là một bác sĩ xuất sắc, tuy nhiên ông được đặt ở phía của nhà duy tâm
Plato, và đang cố vấn cho Pythagoras – người thường được gắn với chủ nghĩa thần bí.
Tương tự như vậy, Zoroaster - người trông giống một nhà chiêm tinh đang cầm quả
địa cầu, đại diện cho việc nghiên cứu các vì sao và hành tinh để tiên đoán
những vấn đề của con người, do đó pha trộn cả những nghiên cứu của bầu trời và
mặt đất. Tất cả những điều này dường như nhận ra tinh thần tìm kiếm tri thức
bất chấp những ranh giới về thời đại, địa lý, văn hóa và kỷ luật.
![]() |
Bức bích họa "The được vẽ vào khoảng từ năm 1509 - 1511 |
Khi tầm nhìn về chuyện học của Raphael có thể
rất truyền cảm hứng thì tôi vẫn tự hỏi liệu người xem có thấy mình trong đó.
Liệu chúng ta có nên chỉ đơn giản là ngắm nhìn những nhân vật vĩ đại này với sự
ngưỡng mộ về quá trình tìm kiếm tri thức không ngừng nghỉ của họ? Robert Haas
trong “Raphael’s
School of Athens: A Theorem in a Painting?” đã đưa ra một câu trả lời mang tính khai trí: “Ở đây không phải
Raphael đang vẽ một cuộc gặp gỡ lịch sử, mà là một bộ sưu tập trong thư viện
thời Phục Hưng. Theo Haas, các nhà triết học đã được nhân cách hóa thành những
cuốn sách của họ. Tôi thấy lời giải thích này mang tính trực quan, bởi vì bức
bích họa được vẽ trên một bức tường của tòa nhà Stanza della Segnatura, sau đó
là thư viện riêng của Giáo hoàng. Nó cũng gợi ra một sự thật lớn hơn về việc
nghiên cứu những cuốn sách cổ điển. Để miêu tả chân dung các nhà tư tưởng vĩ
đại, Raphael đã sử dụng thuyết ảo tưởng, một công nghệ khiến cho các nhân vật
trông có vẻ như đang ở cùng một phòng. Vì thế, người xem không chỉ đơn giản là
trở thành một người quan sát thụ động những tri thức được bảo tồn, mà còn là
một người tham gia vào cuộc đối thoại trải dài khắp các quốc gia và qua nhiều
thế kỷ.
Với cách giải thích này trong tâm trí, tôi đã
tới để ngắm nhìn bức bích họa của Raphael như một lời mời tham gia cùng các nhà
tư tưởng lớn của quá khứ, để học hỏi và để đặt câu hỏi về những tư tưởng của
họ. Thật không may là những lời mời như thế này phần lớn bị ngăn cản để đến với
các sinh viên ở Việt Nam .
Ở đây, những ràng buộc về ý thức hệ trong hệ thống giáo dục hiện đại cùng với
truyền thống học vẹt đã dẫn đến việc hạn chế trong việc khám phá các hệ tư
tưởng. Ví dụ như, trong những giờ học quân sự bắt buộc của học sinh phổ thông,
“triết học” chỉ giới thiệu chủ nghĩa Mác-Lê Nin. Những tư tưởng được dạy ở
trường dường như không phải để học cách phản biện nhằm xây dựng đất nước, thông
qua việc thúc đẩy một thế giới quan duy nhất.
Tuy nhiên thay vì bi quan, tôi lấy cảm hứng từ
ý niệm rằng “Trường học Athens” đại diện cho một thư viện cá nhân, vì nó cho thấy, nếu chúng ta
nhận ra sự cần thiết phải gạt bỏ những thói quen của mình trong việc học tập ở
trường, cố gắng trở thành những người có suy nghĩ độc lập và quan tâm tới những
cuốn sách, thì chúng ta vẫn có thể có được sự khôn ngoan thật sự. Hơn nữa, bối
cảnh lịch sử của bức tranh khiến tôi hi vọng rằng trong tương lai, công cuộc
tìm kiếm tri thức ở Việt Nam
có thể phát triển. Cũng như sự thịnh vượng và thời gian giải trí đã cho phép
người Athen cổ đại suy nghĩ về những tư tưởng có tinh thần cao cả, sự phát
triển kinh tế nhanh chóng của Việt Nam có thể làm thay đổi bối cảnh tri thức
của đất nước. Ngày càng nhiều người đi du học và làm việc ở nước ngoài, sau đó
họ mang trở về những tư tưởng mới, những phương pháp học tập mới cho thế hệ
sau. Số người học ngoại ngữ ngày càng tăng đồng nghĩa với việc những tác phẩm
của các nhà ttư tưởng cởi mở hơn có thể được dịch ra, được nghiên cứu và thảo
luận. Mặc dù, chúng ta còn nhiều việc phải làm ở phía trước, nhưng tương lai
vẫn rất hứa hẹn khi thấy những tổ chức tranh biện và những cộng đồng học tập
thực nghiệm mọc lên. Ví dụ như ở Hà Nội, một tổ chức không chính thức có tên là
Integrity Network đã tập hợp một nhóm các nhà lý luận hàng đầu và các sinh viên
ngành khoa học xã hội nhân văn để thành lập Reading Circle Vietnam . Ở đó, những người tham gia thảo luận về
những cuốn sách, tranh luận với các chuyên gia về nhiều chủ đề. Những câu hỏi
được đặt ra, về nhiều chủ đề từ tự do dân chủ tới nữ quyền, giá trị của chủ
nghĩa dân tộc, ngày càng sắc nét hơn và khuyến khích những quan điểm trái
chiều. Mặc dù vẫn còn hoạt động ở phạm vi nhỏ, nhưng những sáng kiến này dường
như đang đi tiên phong cho một xu hướng mà tôi rất vui khi được là một phần
trong đó.
Dấu hiệu đáng khích lệ này chứng tỏ rằng, thay
vì tiếp thu một cách vô thức một quan điểm duy nhất, ngày càng nhiều người trẻ
Việt Nam quan tâm tới việc tìm kiếm những quan điểm khác biệt từ khắp nơi trên
thế giới, đặc biệt là trong các lĩnh vực lịch sử và chính trị. Tuy nhiên, chúng
ta vẫn có thể làm tốt hơn việc mở rộng tư tưởng của Raphael trong việc khuyến
khích tư duy phản biện trong nỗ lực tìm kiếm tri thức của chúng ta. Ví dụ như
mới đây, các thành viên một câu lạc bộ gồm học sinh, sinh viên cùng quan tâm
tới lĩnh vực quan hệ quốc tế, trong đó có tôi, đã bắt đầu đọc về Henry
Kissinger. Chúng tôi ngưỡng mộ chính sách “realpolitik” hiệu quả của ông và sự
lý giải cao quý của ông về ngoại giao Mỹ. Thực vậy, có một số điều có thể học
hỏi từ những nỗ lực của Kissinger trong việc chấm dứt chiến tranh Việt Nam và
bình thường hóa quan hệ của Mỹ với Trung Quốc.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu sâu hơn, tôi thấy
băn khoăn khi không có một cuộc tranh luận hay thậm chí là sự thừa nhận nào của
chúng tôi về những hành động của Kissinger (mà một số nhà phê bình gọi là tội
ác chiến tranh) khi ông ủng hộ việc ném bom bí mật ở Campuchia, tiến hành những
vụ thảm sát ở nơi mà sau đó là Đông Pakistan, và các chế độ áp bức ở Mỹ Latin.
Có lẽ do một xu hướng kéo dài phải chấp nhận uy quyền của “những tư tưởng vĩ
đại”, thay vì xem xét chúng một cách cẩn thận, nên chúng tôi chỉ đơn giản là
đánh giá những tư tưởng của ông bằng sự tôn kính. Cách tiếp cận của chúng tôi
còn ở rất xa so với tư tưởng được lưu danh trong bức bích họa của Raphael.
Bài học sâu sắc nhất mà tôi rút ra được từ The School of Athens là, những nhà tư tưởng vĩ đại ở đó không phải là để cho chúng ta
tôn trọng một cách không hoài nghi, mà là để cho chúng ta hoài nghi một cách
tôn trọng. Với tôi, tác phẩm này đầy sức mạnh vì nó đã nhắc nhở tôi rằng ngay
cả trong điều kiện của đất nước tôi thì những người say mê học tập luôn có thể
làm việc hướng tới lý tưởng mà bức hoạ đã vẽ ra. Tinh thần tự do trí tuệ và
tinh thần phản biện trên khắp toàn cầu không thể bị khuất phục. Một mặt tôi
luôn mong rằng một ngày nào đó sẽ được tận mắt chiêm ngưỡng bức bích hoạ này,
mặt khác tôi cũng luôn cố gắng xây dựng một Trường học Athens cho riêng mình ở
bất cứ nơi nào mà cuộc tìm kiếm tri thức đưa tôi đến.
· Nguyễn Thảo(dịch theo The Atlantic )
Theo VNN
Nhận xét