4462. Người cộng sản làm giàu trong tang lễ của chính mình
Người cộng sản làm giàu trong tang lễ của
chính mình
Lời giới thiệu của Nguyễn Thông:
Đây là một bài dịch từ báo nước ngoài,
tôi lấy từ Facebook của nhà báo Lê Thọ Bình, không thấy đề tên tác giả và người
dịch. Nhiều điều trong nội dung bài viết này, tôi được nghe từ những năm 70 của
thế kỷ trước. Đưa về đây làm tư liệu. Nguyễn Thông
Người cộng sản làm giàu trong tang
lễ của chính mình
Ở Liên Xô (cũ), chức tước càng cao thì
đặc quyền càng nhiều, nếu muốn làm quan hoặc thăng chức thì phải lấy lòng, hối
lộ các lãnh đạo liên quan. Có nơi, ngay cả chức bí thư đảng ủy cũng được ra
giá...
Từ Nhà điều dưỡng của Lennin đến các cửa
hàng độc quyền
Vào một ngày mùa thu năm 1988, đột nhiên
có hàng trăm, hàng nghìn người tụ tập bên ngoài của một cửa hàng ở Thủ đô
Moskva. Nguyên nhân gì đã khiến cho cửa hàng không phải là lớn này trở thành
tâm điểm của báo chí và dư luận đến vậy?
Đây là một cửa hàng đặc biệt, chuyên phục vụ một số khách hàng đặc biệt, và hôm
đó là ngày cuối cùng trước khi cửa hàng tuyên bố bị đóng cửa. Người dân Liên Xô
gọi các khách hàng đặc biệt của cửa hàng đặc biệt này là những người thuộc tầng
lớp đặc quyền. Tầng lớp đặc quyền này từng bước hình thành dưới thời Brezhnev
và tiếp tục phát triển dưới thời Gorbachev; và đó là một chất xúc tác gây nên
sự tan rã từ bên trong Đảng Cộng sản Liên Xô, là cũng một trong các nhân tố
quan trọng thúc đẩy biến cố Liên Xô.
Sau Cách mạng Tháng Mười, chiến tranh và nạn đói đe dọa nghiêm trọng đối với
chính quyền Xô Viết còn non trẻ. “Rồi sẽ có bánh mì và sẽ có tất cả”, câu nói
đầy ấn tượng của Vasili trong bộ phim “Lenin trong Tháng Mười” đã trở thành câu
nói thịnh hành một thời ở Liên Xô. Ngày nay, người ta khó có thể tin rằng những
người làm việc gần gũi với Lenin từng nhường nhịn, chia sẻ cho nhau chỉ một mẩu
bánh mì, nhưng đây là sự thật của lịch sử.
Nhà làm phim đã dựa vào một câu chuyện có thật hồi ấy để dựng nên tình tiết này
trong phim. Năm 1918, chính quyền Xô Viết gặp phải một cuộc khủng hoảng lương
thực. Tại một cuộc họp của UBND, Churuva lúc đó đang là Ủy viên nhân dân phụ trách
vấn đề lương thực, bất ngờ bị ngất xỉu. Người ta phải khẩn cấp điều bác sĩ đến
khám. Khám xong, bác sĩ kết luận, Churuva bị ngất xỉu do đói!
Là quan chức cao nhất phụ trách vấn đề lương thực của chính quyền Xô Viết,
Churuva nắm trong tay quyền điều động hàng triệu, thậm chí hàng chục triệu tấn
lương thực, nhưng lại không giữ cho riêng mình số thực phẩm đủ để no bụng. Ngay
sau đó, Lenin kiến nghị xây dựng nhà ăn điều dưỡng để bảo đảm cho những đồng
chí đang ngày đêm lo lắng cho nhân dân được no. Điều này hoàn toàn đúng và
không có gì phải bàn cãi.
Nhà ăn điều dưỡng do Lenin khởi xướng
năm ấy dần dần mở rộng thành cửa hàng cấp đặc biệt, rồi dần dần quy mô và số
lượng của nó đã có sự thay đổi căn bản. Sau nửa thế kỷ, chỉ có những cán bộ đặc
biệt cao cấp của Liên Xô mới có thể ra vào tòa nhà không hề có biển hiệu này.
Đây là cửa hàng cung cấp đặc biệt lớn nhất Moskva.
Vào dịp cuối tuần, những chiếc xe hơi lũ lượt kéo đỗ trước của tòa nhà, chật
kín cả dãy phố. Ở đây có đủ các loại hàng hóa xa xỉ của nước ngoài, như rượu
Brandy của Pháp, Whisky của Scotland, thuốc lá thơm Mỹ, Chocolate Thụy Sĩ,
coffee của Italia, giầy da của Áo, len dạ Anh, máy thu thanh Đức, máy ghi âm
Nhật Bản,... có cả các mặt hàng khan hiếm ở Liên Xô. Báo chí đã nói công khai
rằng, đối với những nhân vật thuộc tầng lớp trên thì chủ nghĩa Cộng sản đã được
xây xong từ lâu! Chỉ riêng Moskva đã có hơn 100 cửa hàng như vậy.
Tầng lớp đặc quyền trong điện Kremlin có quy tắc riêng của mình, chức vụ càng
cao đặc quyền càng lớn thì sự chênh lệch về đãi ngộ vật chất mà họ được hưởng
so với dân thường càng lớn. Đương nhiên những người được hưởng đặc quyền này
chỉ là một bộ phận rất nhỏ trong đội ngũ cán bộ Đảng Cộng sản Liên Xô. Thế
nhưng thứ đặc quyền này phải chăng là căn nguyên đầu tiên của sự bất mãn xã hội
mà tầng lớp này đã gây ra?
Thời kỳ Liên Xô vừa bắt đầu xây dựng CNXH, mọi người phấn đấu gian khổ hướng
tới một cuộc sống mới. Khi đang phải phấn đấu vất vả để thực hiện lý tưởng
chung, xã hội không chấp nhận những hàng vi dành chiếm độc quyền, mưu lợi cá
nhân. Vào lúc nhà nước, dân tộc đứng trước nguy cơ tồn vong, nếu nói cán bộ
lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô có đặc quyền gì đó thì đó chính là xung phong ra
trận, xả thân chiến đấu, tắm máu sa trường, lãnh đạo nhân dân đánh đuổi quân
xâm lược trong tiếng réo hờn căm của Kachiusa.
Thời Stalin, yêu cầu của Đảng với cán bộ nhìn chung rất nghiêm khắc. Khi đó
Liên Xô cũng đang phải đương đầu với môi trường chiến tranh tàn khốc và cả sóng
to gió lớn của cuộc đấu tranh chính trị. Từng đoàn cán bộ, đảng viên đi ra tiền
tuyến. Sự thay đổi cán bộ lãnh đạo diễn ra thường xuyên, tầng lớp đặc quyền
không có cơ hội hình thành.
Sau khi lên nắm quyền, Khrushchev đã thực hiện chính sách "cán bộ đặc
biệt" theo quy định tại Điều 25 - Điều lệ Đảng Cộng sản được Đại hội 22
của Đảng Cộng sản Liên Xô thông qua. Cán bộ đảng viên cần thay đổi thường
xuyên. Tại các buổi bầu cử diễn ra tại tổ chức đảng cơ sở hàng năm đều có hàng
loạt bí thư bị thay thế sau khi kết thúc nhiệm kỳ. Tỷ lệ thay đổi cán bộ lãnh
đạo lên tới 60%. Bởi vậy, trong thời kỳ này Liên Xô vẫn chưa hình thành tầng
lớp người thật sự được hưởng đặc quyền trong Đảng. Tầng lớp đặc quyền trong
Đảng Cộng sản Liên Xô chỉ từng bước hình thành sau khi Brezhnev nắm quyền, nhất
là vào giai đoạn cuối thời Brezhnev.
Hình thành tầng lớp đặc quyền trong đảng
Tháng 4-1966, Đảng Cộng sản Liên Xô tổ
chức Đại hội 23. Đây là Đại hội Đảng đầu tiên diễn ra sau khi Brezhnev nắm
quyền điều hành công tác của BCH TƯ. Đại hội đã sửa đổi Điều 25 trong Điều lệ
Đảng. Brezhnev đặc biệt tâm đắc câu nói của Khrushchev, người một thời gian dài
phụ trách công tác ý thức hệ trong Đảng rằng: "Sự ổn định của đội ngũ cán
bộ là sự bảo đảm cho thành công".
Brezhnev theo đuổi sự ổn định của đội ngũ cán bộ một cách phiến diện sau đó
phát triển thành chế độ chức vụ. Thực chất là chế độ chức vụ suốt đời, áp dụng
với cán bộ lãnh đạo. Các cán bộ cao cấp của Liên Xô như Brezhnev, Khrushchev
đều qua đời khi còn đương chức. Chính sách cán bộ của Brezhnev đã khiến cho các
thành viên trong tầng lớp lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô gần như không có
biến động trong suốt một thời gian dài. Tại Đại hội 23 của Đảng Cộng sản Liên
Xô, số ủy viên tái đắc cử và liên nhiệm đạt tỷ lệ 79,4%.
Tại Đại hội 25, không tính số ủy viên T.Ư đã qua đời thì tỷ lệ Ủy viên T.Ư liên
nhiệm cao tới 90%.
Trong hai nhiệm kỳ Đại hội Đảng cấp tỉnh từ năm 1978 đến năm 1981, chỉ có năm
trong số 156 vị trí bí thư tỉnh ủy có sự thay đổi về nhân sự. Đến mùa xuân năm
1978, độ tuổi bình quân của 58 vị phó chủ tịch hội đồng bộ trưởng và bộ trưởng
là 70. Thực tế này đã tạo ra một đội ngũ lãnh đạo già nua, đương chức suốt đời.
Hậu quả của chế độ cán bộ này là vừa khiến cho tầng lớp lãnh đạo thiếu đi sức
sống vừa dễ hình thành một lực lượng hạt nhân trong tầng lớp đặc quyền.
Xét về khách quan, chế độ cán bộ lãnh đạo suốt đời làm cho đội ngũ, tầng lớp
đặc quyền không ngừng mở rộng, kéo theo sự không ngừng tăng lên cơ quan hành
chính được lập ra để bố trí ngày càng nhiều cán bộ lãnh đạo. Cuối những năm 70
của thế kỷ trước, số cơ quan cấp ban, bộ trực thuộc T.Ư Đảng Cộng sản Liên Xô
lên tới 20. Trong đó, đại bộ phận trùng lặp với các cơ quan của chính phủ. Thậm
chí tên gọi của những ban, bộ này cũng giống hệt nhau. Như Ban Nông nghiệp, Ban
Công nghiệp quốc phòng, Ban Công nghiệp nặng và năng lượng, Ban Chế tạo cơ khí,
Ban Văn hóa...
Dưới thời Brezhnev, Đảng Cộng sản Liên Xô đã tạo đất cho tầng lớp đặc quyền
sinh sôi, nảy nở. Nhiều cán bộ cấp cao không khỏi sửng sốt trước chế độ đãi ngộ
đặc biệt mà họ được hưởng ngay sau khi được đề bạt.
Ligachev kể lại trong hồi kí rằng: Năm 1983, khi được bổ nhiệm làm Trưởng ban
Tổ chức T.Ư Đảng Cộng sản Liên Xô, ngay ngày hôm sau ông đã được cấp một chiếc
xe ô-tô cao cấp. Khi ông yêu cầu thay cho mình một chiếc xe đẳng cấp thấp hơn
một chút, không ngờ ông bị Chánh văn phòng T.Ư Đảng phê bình lại rằng: đồng chí
làm như thế là một sự đòi hỏi đặc biệt, làm mất phong độ của cơ quan. Nếu không
ở trong cuộc, người ta không thể tưởng tượng được những hưởng thụ do đặc quyền
mang lại.
Dưới thời Brezhnev, con cái tầng lớp đặc quyền chỉ cần dựa vào địa vị đặc quyền
của bố mẹ là có thể dễ dàng được vào học tại những trường đại học tốt nhất. Sau
khi tốt nghiệp lại được nhận vào các ban, ngành ưu việt nhất, đồng thời nhanh
chóng được nắm giữ những cương vị quyền lực quan trọng. Thậm chí, đặc quyền còn
có thể trở thành "lá bùa hộ mệnh" để cán bộ lãnh đạo mặc sức tham
nhũng mà không bị cản trở. Rubanov, con rể của Brezhnev, đã dựa vào quyền thế
của bố vợ, quan lộ phất như "diều gặp gió".
Chỉ trong vòng 10 năm, ông ta đã từ một sĩ quan cấp thấp trở thành thượng
tướng, sau đó được bổ nhiệm làm Thứ trưởng thứ nhất Bộ Nội vụ. Trong thời gian
này, ông ta đã tham ô, nhận hối lộ 650 nghìn rúp, gây ra vụ án "phò
mã" chấn động cả nước. Còn Yuri, con trai Brezhnev thì được bổ nhiệm làm
Thứ trưởng thứ nhất Bộ Ngoại thương Liên Xô khi còn rất trẻ.
“Con ông cháu cha” khuynh đảo xã hội
Tháng 1-1982, tại sân bay Moskva, một
công dân Liên Xô chuẩn bị lên máy bay ra nước ngoài du lịch, nhân viên hải quan
đã tìm thấy một lượng lớn kim cương cất giấu trong chiếc túi bí mật trên người.
Kết quả điều tra cho thấy, đây là sưu tập cá nhân của nữ huấn luyện viên dạy sư
tử ở Rạp xiếc Trung ương. Sau đó không lâu, chuyên gia mỹ thuật và giám đốc của
rạp xiếc bị bắt giữ. Người ta còn tìm thấy số kim cương trị giá khoảng 1 triệu USD
và nhiều đồ vật quý giá khác tại nhà riêng của chuyên gia mỹ thuật và khoảng
500 nghìn bảng Anh cùng nhiều đồ trang sức, tác phẩm hội họa đắt tiền tại nhà
riêng của giám đốc.
Đáng nói là, những thứ này đều thuộc sở hữu của Galina - con gái Brezhnev. Câu
chuyện chưa dừng lại ở đó, vụ buôn lậu đồ trang sức, kim cương còn liên quan
Thứ trưởng thứ nhất Bộ Ngoại thương Yuri. Vụ việc này lẽ ra thuộc thẩm quyền
của Bộ Nội vụ xử lý, nhưng sau đó lại được chuyển sang cho Ủy ban An ninh quốc
gia (KGB). Trong khi Phó Chủ tịch thứ nhất của KGB là Svigun, người trực tiếp
chỉ đạo vụ án này lại là anh em cọc chèo với Brezhnev. Kết quả là, câu chuyện
kết thúc ở đó. Con trai Brezhnev là Yuri và con gái của ông ta là Galina vẫn
nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật.
Trong 17 năm giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Selokhov đã lợi dụng chức quyền,
biến của công thành của tư. Ông ta không chỉ chiếm khu biệt thự cấp nhà nước
lớn nhất của Bộ Nội vụ và nhà khách Bộ Nội vụ làm của riêng mà còn chiếm một
tòa chung cư rất lớn ở số 24, phố Hensen. Một lượng lớn tài sản cá nhân của
Selokhov và người nhà ông ta được cất giữ trong khu biệt thự cấp nhà nước và
tòa chung cư này. Tại một khu biệt thự, chỉ tính thảm trải nhà đã xếp tới bảy
tầng, dưới gầm giường nhét đầy những bức tranh sơn dầu của các danh họa Nga.
Dưới thời Brezhnev, tình trạng tham nhũng tại Moskva và các nước cộng hòa thuộc
Liên bang ngày càng nghiêm trọng. Năm 1980, nhân viên điều tra tình cờ mua một
lô cá trích đóng hộp, sau khi mở nắp mới phát hiện bên trong đựng toàn trứng cá
Cavian cực đắt. Cá trích sao lại biến thành trứng cá Cavian được?
Sau một thời gian vất vả điều tra, vụ việc đã được làm sáng tỏ. Thì ra một số
quan chức Bộ Ngư nghiệp Liên Xô đã bí mật giao dịch với một công ty để họ đóng
trứng cá Cavian sản xuất tại Sochi và Astrakhan vào trong những hộp dán nhãn cá
trích rồi vận chuyển ra nước ngoài. Công ty phương Tây mua với giá cá trích,
sau đó bán chuyển tay. Những người tham gia từ phía Liên Xô sẽ được hưởng lợi
nhuận hậu hĩnh từ khoản doanh lợi kếch xù được gửi vào tài khoản ngân hàng Thuỵ
Sĩ. Hành vi buôn lậu này diễn ra trong suốt 10 năm. Kết quả điều tra cho thấy,
vụ án này làm Liên Xô tổn thất hàng triệu USD, hơn 300 người dính líu vụ án.
Trong đó, có những quan chức cấp cao như Thứ trưởng Ngư nghiệp, Phó Cục trưởng
Sản xuất, Tiêu thụ, Quản lý ngư nghiệp cùng các cán bộ, nhân viên Bộ Ngoại
thương, Bộ Công nghiệp thực phẩm, Hạm đội Thái Bình Dương, rồi nhân viên cửa
hàng tại Moskva và các thành phố khác. Người chịu trách nhiệm phân phối loại
sản phẩm đóng hộp này là thị trưởng thành phố Sochi - Volokov, Bí thư thứ nhất
Khu ủy Krasnodar trực tiếp quản hạt Sochi là Maidunov. Ông ta là người thân tín
của Brezhnev. Khi được lệnh tham gia điều tra vụ án, ông ta đã ra sức bao che
cho Volokov. Sau khi báo Văn học đăng tin Volokov bị bắt, Maidunov rất lo lắng,
nhiều lần đã lên Moskva cầu cứu Brezhnev.
Do mức độ nghiêm trọng của vụ án, Chủ tịch KGB là Andropov đích thân báo cáo vụ
việc này với Brezhnev. Trước một loạt chứng cớ rõ ràng, Brezhnev hỏi:
"Theo đồng chí nên giải quyết thế nào?". Andropov đáp: Vụ này phải
đưa Maidunov ra tòa. Brezhnev bảo: Làm thế không được. Bây giờ chúng ta không
có người đáng tin cậy ở Krasondur, liệu có thể tạm thời thuyên chuyển Maidunov
đến nơi khác được không? Sau đó Maidunov mặc dù bị cách chức nhưng lại được
điều lên Moskva làm Thứ trưởng Bộ Lương thực Thực phẩm, được sống trong một căn
hộ sang trọng tại Moskva. Câu chuyện đã kết thúc một cách "êm đẹp"
như thế...
Tầng lớp đặc quyền trong Đảng Cộng sản Liên Xô trước hết là xuất phát từ chức
tước. Có người cho rằng, chức tước càng cao thì đặc quyền càng nhiều, nếu muốn
làm quan hoặc thăng chức thì phải lấy lòng, hối lộ các lãnh đạo liên quan. Chức
tước vì thế mà có giá. Tại một số nơi, ngay cả chức bí thư đảng ủy cũng có giá.
Năm 1969, chức bí thư thứ nhất của một khu ủy Azerbaijan có giá 200 nghìn rúp,
bí thư thứ hai có giá 100 nghìn rúp. Hiện tượng mua quan, bán tước cũng tồn tại
ở các nước cộng hoà khác trong Liên bang với các hình thức, mức độ khác nhau.
Hội nghị toàn thể tháng 2 năm 1973, TƯ Đảng Gruzia từng chỉ rõ: Trước đây, công
tác tuyển chọn và sử dụng cán bộ đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc của Chủ
nghĩa Lenin. Việc bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo không phải căn cứ vào năng lực công
tác và phẩm chất đạo đức của họ, mà dựa vào thao túng đằng sau, dựa vào quan hệ
quen thân gia đình, dựa trên nguyên tắc có trung thành với cá nhân cấp trên hay
không.
Tầng lớp đặc quyền: “Bọn họ” là ai?
Để bảo vệ những lợi ích hiện có, tầng
lớp đặc quyền chống lại bất cứ sự cải cách nào ảnh hưởng đến đặc quyền của mình.
Bởi vậy, không thể chủ động ngăn chặn tình trạng tham nhũng đang lan tràn trong
toàn Đảng, toàn xã hội. Brezhnev lạnh lùng với từ “cải tổ” rằng: Cải cái gì, cứ
làm tốt công việc là được rồi.
Cuối thập kỷ 70 của thế kỷ 20, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô và trợ lý
của ông soạn thảo một báo cáo về cải tổ kinh tế gây nên sự bất mãn và tẩy chay
của một bộ phận các tầng lớp đặc quyền quan liêu. Kết quả, trợ lý của ông bị
cách chức.
Tầng lớp đặc quyền đã làm tổn hại nghiêm trọng thanh danh của CNXH, tạo ra hố
ngăn cách lớn trong xã hội, làm hư hỏng xã hội. Khoảng cách giữa người dân bình
thường và tầng lớp đặc quyền ngày càng lớn. Trong xã hội Liên Xô, người dân
bình thường tự gọi mình là “chúng ta”, còn gọi những người đặc quyền là “bọn
họ”. Thế nhưng, khi nói đến tầng lớp đặc quyền trong Đảng Cộng sản Liên Xô,
chúng ta phải nhấn mạnh mấy điểm sau đây:
- Thứ nhất: Tầng lớp đặc quyền chỉ là khái niệm đặc chỉ đối với một bộ phận nhỏ
các phần tử thoái hoá, biến chất lạm dụng chức vụ mưu lợi riêng trong đội ngũ
cán bộ Đảng Cộng sản Liên Xô khi đó. Việc phương Tây gọi 600 - 700 nghìn cán
bộ, đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô khi đó là tầng lớp đặc quyền hoàn toàn là
sự tuyên truyền rắp tâm nhằm phá hoại Đảng Cộng sản Liên Xô. Nhìn chung, đại đa
số cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản Liên Xô khi đó đều là những người liêm
khiết, chí công, hăng hái cống hiến. Họ kiên định đi theo con đường XHCN.
- Thứ hai: Phải phân biệt sự chênh lệch hợp lý với đặc quyền trong lĩnh vực
phân phối. Khi đó, mặc dù trong nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô và trong xã hội
Liên Xô tồn tại tầng lớp đặc quyền và hiện tượng đặc quyền nghiêm trọng, nhưng
đồng thời với nó là chủ nghĩa bình quân theo kiểu “ăn chung nồi” tồn tại nghiêm
trọng trong lĩnh vực phân phối của Liên Xô.
- Thứ ba: Không chỉ chú ý đến hiện tượng độc quyền tồn tại trong lĩnh vực phân
phối mà phải chú ý đến hơn biểu hiện của hiện tượng này trong lĩnh vực khác
như: xây dựng chính sách, bổ nhiệm cán bộ, uốn cong luật pháp để mưu lợi riêng
cho bản thân và tập đoàn nhỏ đồng thời né tránh sự giám sát của kỷ luật Đảng và
quy định pháp luật. Điều này còn nghiêm trọng hơn vì nó phá hoại mối quan hệ
giữa Đảng và quần chúng, dẫn đến sự thay đổi tính chất của Đảng. Căn bệnh này
càng bộc lộ rõ hơn dưới thời Gorbachev.
Tham quan một biệt thự, là nơi ở cũ của của Gorbachev trước khi ông ta lên nắm
quyền, chúng ta thấy như sau: Qua cửa chính là một sảnh rộng. Tầng một có ban
công bọc kính và phòng chiếu phim, chiếc bàn ăn dài 10m, phòng bếp giống như
một xưởng chế biến thức ăn lớn, còn có một tủ lạnh ngầm dưới đất. Trên tầng
hai, đi qua sảnh lớn là tới thẳng phòng tắm nắng, văn phòng, phòng ngủ. Mọi thứ
bày biện và trang trí trong tòa biệt thự đều hết sức xa xỉ. Xét về một ý nghĩa
nào đó thì cuộc sống cá nhân xa hoa tột đỉnh này còn xa mới bộc lộ được bản
chất cuộc sống của tầng lớp đặc quyền. Cái gọi là “cải tổ” của Gorbachev sau
khi lên nắm quyền đã trở thành chất xúc tác để tầng lớp đặc quyền chuyển biến
thành giai cấp tư sản mới. Sự cải tổ rùm beng là cơ hội tuyệt vời để tầng lớp
đặc quyền tha hồ mưu lợi cá nhân.
Làm giàu trong tang lễ của chính mình
Dưới thời Gorbachev, tầng lớp đặc quyền
đã không còn thỏa mãn với việc theo đuổi hưởng thụ cá nhân, mà còn mong muốn
chiếm hữu lâu dài mọi đặc quyền hiện có. Thậm chí còn để lại cho con cháu đời
sau. Đồng thời, tầng lớp đặc quyền còn phát hiện ra rằng CNXH, lòng tin vào
CNCS thường trực nơi cửa miệng và ánh hào quang đảng viên Đảng Cộng sản mà họ
mang trên mình đã không còn giá trị sử dụng. Họ thấy rằng, những đặc quyền mà
họ vốn có phải được thay đổi hình hài và CNTB là chế độ thích hợp nhất để hợp
pháp hóa những lợi ích hiện có của họ. Đặc biệt, trong lúc Đảng Cộng sản Liên
Xô và đất nước đang đứng trước nguy cơ tồn vong. Giữ vững lợi ích đặc biệt của
mình và hợp pháp hoá chúng, tầng lớp đặc quyền đã không ngần ngại lột bỏ mặt
nạ, công khai thúc đẩy vứt bỏ CNXH đi theo con đường của CNTB, tư hữu hoá toàn
diện.
Trong thời gian này, tầng lớp đặc quyền lợi dụng quyền lực đang nắm trong tay
để ra sức vơ vét, làm giàu cho bản thân. Nhất là các vị quan kinh tế trực tiếp
quản lý tài sản của doanh nghiệp nhà nước. Họ lợi dụng sự hỗn loạn về thương
mại hoá, thị trường hoá, kinh tế tự do hoá do Gorbachev tiến hành để làm một
cuộc lật bài kinh tế, trực tiếp chiếm đoạt tài sản nhà nước thành tài sản
riêng. Có kẻ thực hiện các cuộc giao dịch giữa quyền - tiền để có những ưu đãi
và quota xuất khẩu nguyên liệu và vũ khí, bòn rút tài sản xã hội. Có kẻ thu
siêu lợi trong các cuộc giao dịch chứng khoán, hàng hóa trả chậm rồi thành lập
ngân hàng và các cơ quan tài chính khác. Một bộ phận thiểu số đó, sau này, trở
thành những ông trùm tài chính mới.
Năm 1991, trong số hàng vạn triệu phú ở Moskva, đại bộ phận nguyên là những cán
bộ làm việc trong các cơ quan Đảng, chính quyền. Kết quả điều tra tiến hàng
trong tháng 6 năm đó cho thấy, trong tầng lớp cán bộ cao cấp Liên Xô có tới
76,7 % số người cho rằng nên đi theo con đường tư bản. Chính những kẻ gọi là
đảng viên Đảng Cộng sản này đã làm cách mạng bằng cách "cách đi cái mạng
của Đảng Cộng sản Liên Xô". Bọn họ không chỉ vơ vét cho đầy túi tham mà
còn tiếp tục nắm giữ những cương vị cao, kiểm soát quyền lực của nhà nước.
Nước Nga sau khi Liên Xô sụp đổ, ngoại trừ một số ít nhân vật ngự trên đỉnh
ngọn kim tự tháp quyền lực, còn lại một phần cán bộ biến thành những "quý
nhân" của nước Nga. Họ chiếm 75% số quan chức bên cạnh tân tổng thống;
57,1% trong số lãnh tụ những chính đảng mới và 73,4 % trong số những quan chức
của chính phủ mới.
Nhà kinh tế học nổi tiếng người Mỹ David Code có một câu nói có thể gọi là
"đúng tim đen": Đảng Cộng sản Liên Xô là chính đảng duy nhất làm giàu
trong tang lễ của chính mình. Trước khi Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ không lâu
đã có một cuộc điều tra dân ý về chủ đề: "Đảng Cộng sản Liên Xô đại diện
cho ai?". Kết quả là, số người cho rằng Đảng Cộng sản Liên Xô đại diện cho
nhân dân Liên Xô chiếm 7%, đại diện cho công nhân chiếm 4%, đại diện cho toàn
thể đảng viên chiếm 11%. Trong khi đó, có tới 85% số người được hỏi cho rằng:
Đảng Cộng sản Liên Xô đại diện cho quan chức, cán bộ và nhân viên nhà nước.
Sự hình thành và phát triển của tầng lớp đặc quyền trong Đảng Cộng sản Liên Xô
đã trải qua một quá trình lịch sử lâu dài. Trong giai đoạn này, những kẻ tham
nhũng lộ liễu hay lén lút đều tham lam chiếm đoạt tài sản nhà nước thuộc sở hữu
của nhân dân. Trong khi đó, đối với tầng lớp đặc quyền, Đảng Cộng sản Liên Xô
đã đi từ chỗ ít ngăn chặn đến không tấn công, rồi bao che, thậm chí dung túng,
khiến cho khối u ác tính này phát triển và lây lan nhanh chóng trên chính cơ
thể của mình.
Theo Facebook Lê Thọ
Bình,
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=1195506307237004&set=a.294682160652761.71566.100003329381274&type=3&theater
(Bài đã đăng Báo Nhân dân , ngày 10/8/2010 với tiêu đề: Những bài học lịch sử về sự sụp đổ của Đảng Cộng sản Liên Xô: Phần 4: Tầng lớp đặc quyền của Đảng CS Liên Xô (kỳ 1)
Nhận xét