4359. Tổng thống Obama thăm Việt Nam: Bốn điểm nhấn khó quên
Tổng thống
Obama thăm Việt Nam :
Bốn điểm nhấn khó quên
25/05/2016 13:00 GMT+7
LTS:Chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Obama đang điểm
những thời khắc cuối, sau ba ngày đầy ắp những sự kiện, những dấu mốc trọng đại
trong lịch sử quan hệ hai nước.
Để nhìn lại chuyến thăm ý nghĩa
này, Tuần Việt Nam/ Báo VietnamNet có cuộc trò chuyện với TS Lê
Hồng Hiệp, nghiên cứu viên chính tại Viện Nghiên cứu Đông
Nam Á, Singapore, và Giảng viên tại Khoa Quan hệ Quốc tế, ĐHKHXH&NV TPHCM;
và PGS-TS Alexander L. Vuving, Trung tâm Nghiên cứu An ninh khu vực châu
Á-Thái Bình Dương APCSS-Mỹ.
![]() |
Tổng thống Obama thăm khu DreamPlex tại TP. HCM. Ảnh: AP |
Các ông đánh giá như thế nào về
tổng thể chuyến thăm của Tổng thống Obama tới Việt Nam ?
TS Lê Hồng Hiệp: Chuyến thăm của Tổng thống Obama tới
Việt Nam giành được nhiều sự chú ý của công luận trong nước cũng như quốc tế,
thể hiện ý nghĩa quan trọng của chuyến thăm cũng như tầm quan trọng ngày càng
lớn của quan hệ Việt – Mỹ đối với hai nước cũng như khu vực. Cho tới lúc này có
thể nói chuyến thăm đã thành công như mong đợi, với việc hai bên đạt được nhiều
thỏa thuận trong các lĩnh vực quan trọng. Trong chuyến thăm có 4 điểm nhấn mà
chúng ta nên lưu ý.
Điểm
nhấn đầu tiên là việc Mỹ gỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận vũ khí sát thương đối với
Việt Nam, đánh dấu sự bình thường hóa hoàn toàn quan hệ song phương, và gửi đi
một thông điệp nhiều ý nghĩa về sự thắt chặt quan hệ hợp tác chiến lược giữa
hai nước trong tương lai.
Điểm
nhấn thứ hai là hợp đồng mua 100 máy bay Boeing của hãng hàng không Vietjet.
Đây là hợp đồng thương mại lớn nhất giữa hai nước từ trước tới nay, và đưa Việt
Nam
cũng như Vietjet trở thành những khách hàng lớn của ngành chế tạo máy bay Mỹ
nói chung, Boeing nói riêng.
Sự
kiện cho thấy hai bên đều có thể cùng thắng trong mối quan hệ này, qua đó góp
phần xóa bỏ định kiến lâu nay, nhất là của một số người Mỹ, rằng Việt Nam đang
hưởng lợi nhiều hơn Mỹ từ mối quan hệ. Sự kiện cũng góp phần khuyến khích cộng
đồng doanh nghiệp Mỹ tăng cường hậu thuẫn cho quan hệ song phương cũng như
chính sách đối ngoại của chính quyền Mỹ hiện nay, đặc biệt là trong bối cảnh
việc phê chuẩn hiệp định TPP ở Mỹ có thể gặp một số thách thức trong thời gian
tới.
Điểm
nhấn thứ ba là việc Việt Nam
cấp phép cho việc thành lập cho Đại học Fulbright Việt Nam . Sự kiện
này cho thấy quan hệ Việt – Mỹ đang phát triển toàn diện và thực chất, và sự
phát triển quan hệ đó không phải hoàn toàn là vì vấn đề Biển Đông hay Trung
Quốc. Sự kiện cũng mang lại những giá trị hữu hình từ sự phát triển quan hệ
song phương cho bản thân những người dân thường Việt Nam .
Điểm
nhấn cuối cùng là sự tiếp đón nồng nhiệt của người dân Việt Nam dành cho TT
Obama cũng như sự thân thiện và nhiệt tình của ông Obama trong giao lưu với người
dân Việt Nam, được thể hiện trên thực tế cũng như không gian mạng. Những thiện
cảm, ủng hộ của người dân đối với bản thân vị tổng thống và mối quan hệ Việt –
Mỹ có lẽ là một trong những nền tảng quan trọng nhất giúp quan hệ song phương
sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong tương lai.
PGS-TS Alexander L. Vuving: Chuyến thăm của Tổng thống Obama là một
dấu mốc lớn trong quan hệ hai nước. Nó tiếp nối một quá trình lịch sử kịch tính
giữa Mỹ và Việt Nam trong những năm qua, đặc biệt là từ năm 2012, khi Mỹ bắt đầu
“tái cân bằng” về châu Á. Có lẽ sự kiện có ý nghĩa nhất trong chuyến thăm này
là Mỹ tuyên bố bãi bỏ hoàn toàn cấm vận vũ khí đối với Việt Nam.
Động
thái này là dấu mốc rất quan trọng cho quá trình bình thường hoá quan hệ giữa
hai nước. Nó cũng khẳng định giữa Mỹ và Việt Nam không còn mâu thuẫn lợi ích
chiến lược, mà ngược lại, có sự tương đồng rộng lớn về lợi ích chiến lược ở
Biển Đông và trong khu vực.
Chuyến
thăm có ý nghĩa lớn đối với cân bằng chiến lược trong khu vực. Nó mở ra những
khả năng rộng lớn để tái cân bằng quyền lực trong khu vực vốn đang có xu hướng
bị lệch do những hành động ngạo ngược coi thường công pháp quốc tế tại Biển
Đông.
Những rào cản cuối cùng giữa
hai quốc gia còn nhiều khác biệt đã được dỡ bỏ sau tuyên bố của Tổng thống
Obama về việc Xóa bỏ cấm vận vũ khí. Nhà Trắng cũng loan báo Mỹ sẽ cung cấp 18
tàu tuần tra cho Việt Nam, đồng thời hỗ trợ huấn luyện và thiết bị thực thi
pháp luật trên biển cho Cảnh sát Biển Việt Nam. Theo các vị, điều này có ý
nghĩa gì trong việc duy trì ổn định an ninh hàng hải trong khu vực và trên thế
giới?
PGS-TS Alexander L. Vuving: Muốn có hoà bình ổn định trong khu vực
thì trước hết phải có cân bằng quyền lực ở Biển Đông. Các bước đi theo kiểu “cờ
vây” đang được áp dụng tại khu vực này đã làm lệch cán cân quyền lực trên Biển
Đông, khiến gia tăng căng thẳng trong khu vực. Thêm vào đó là những hành động
bành trướng một cách lắt léo trong vùng xám (giữa xung đột và hoà bình) nên rất
khó để các quốc gia liên quan trực tiếp ngăn chặn các hành động như vậy.
Trong
bối cảnh này, Mỹ, Việt Nam và một số nước khác tận dụng được lợi thế so sánh
của mình và chơi “cờ vây” một cách mạnh bạo hơn thì hoàn toàn có thể tái cân
bằng quyền lực trong khu vực mà không cần phải sử dụng đến vũ lực.
Một
hướng đi lớn trong ván “cờ vây”, đó là dành cho Việt Nam quyền tiếp cận công
nghệ vũ khí của Mỹ và cho Mỹ quyền tiếp cận các cơ sở ở Việt Nam. Việc Mỹ xoá
bỏ cấm vận vũ khí với Việt Nam
đã mở ra cơ hội rộng lớn cho những hướng đi này.
Đồng
thời, động thái bỏ hoàn toàn cấm vận của Mỹ cũng gia tăng sự tin cậy chiến lược
giữa hai nước. Điều này mở ra cơ hội để Mỹ và Việt Nam trở thành một “cặp đôi hoàn
hảo” trong việc giữ ổn định và tự do hàng hải trong khu vực.
TS Lê Hồng Hiệp: Sự hợp tác Việt - Mỹ trong lĩnh vực an
ninh hàng hải là một kết quả tất yếu và tự nhiên khi hai bên có nhiều lợi
ích song trùng trong đó, nhất là trong bối cảnh vấn đề này đang nhận được sự
quan tâm lớn của hai nước khi tình hình Biển Đông gần đây đang có những diễn
biến phức tạp, đe dọa các lợi ích đó của hai nước.
Đây
là một minh chứng khác cho mối quan hệ hai bên cùng thắng giữa Việt Nam và Mỹ.
Việt Nam cần nâng cao năng lực hàng hải để bảo vệ tốt hơn lợi ích của mình trên
Biển Đông, còn bản thân Hoa Kỳ cũng muốn các quốc gia ven Biển Đông nâng cao
năng lực trong việc chống lại các sự áp đặt mang tính cưỡng bức có thể đe dọa
các hàng hóa công quan trọng như tự do và an toàn hàng hải, vốn là những lợi
ích thiết yếu của Hoa Kỳ.
Sự
tăng cường quan hệ song phương trong lĩnh vực an ninh hàng hải này tất nhiên sẽ
nhận được nhiều sự chú ý từ cộng đồng quốc tế, bởi nó là dấu hiệu của những
dịch chuyển sâu hơn trong cán cân chiến lược khu vực mà trong đó quan hệ Việt –
Mỹ là một bộ phận cấu thành. Khi cán cân đó cân bằng hơn, việc duy trì hòa bình
và ổn định của khu vực cũng sẽ có cơ hội lớn hơn.
![]() |
“Thiện cảm, ủng hộ của người dân đối với bản thân vị tổng thống và mối quan hệ Việt – Mỹ có lẽ là một trong những nền tảng quan trọng nhất”. Ảnh: Phạm Hải |
Trong chuyến thăm chính thức
này, Việt Nam và Hoa Kỳ ra Tuyên bố chung, đưa quan hệ đối tác toàn diện theo
hướng hợp tác sâu sắc hơn. Liệu có thể sớm kì vọng hai bên sẽ nâng tầm quan hệ
lên đối tác chiến lược hay không?
TS Lê Hồng Hiệp: Như một số nhà phân tích đã chỉ ra,
quan hệ song phương hiện tại mặc dù mang nhãn “đối tác toàn diện” nhưng bản
chất đã ít nhiều mang tính chiến lược, nhất là trong bối cảnh hai nước đã tăng
cường quan hệ hợp tác trong lĩnh vực an ninh – quốc phòng trong thời gian gần
đây. Vì vậy, việc “nâng cấp” ngay quan hệ song phương lên mức “đối tác chiến
lược” nếu có xảy ra thì cũng chủ yếu mang tính chất biểu tượng, và vì vậy có
thể không cần thiết, nhất là nếu nó có thể gây ra những hiểu lầm, nghi kỵ từ
một vài quốc gia khác.
Vì
thế theo tôi việc hai nước cùng làm những gì với nhau trên thực tế để quan hệ
hai bên được thực chất và đáp ứng được các kỳ vọng lẫn nhau, nhất là trên
phương diện quân sự - chiến lược, sẽ quan trọng hơn việc chính thức gắn nhãn
“đối tác chiến lược” cho mối quan hệ đó, ít nhất là trong thời gian trước mắt.
PGS-TS Alexander L. Vuving: Với đà phát triển hiện nay của các sự
kiện và các mối quan hệ, sẽ không có gì bất ngờ nếu Việt Nam và Mỹ nâng
quan hệ lên đối tác chiến lược trong 5 năm tới.
Một câu hỏi cũng đang được dư
luận đặc biệt quan tâm, đó là liệu chính phủ Mỹ, nhiệm kỳ tới, sẽ tiếp tục duy
trì ra sao những kết quả đã được xây dựng và củng cố từ chuyến thăm lịch sử của
Tổng thống Obama tới Việt Nam?
TS Lê Hồng Hiệp: Theo tôi hiểu thì lưỡng đảng của Hoa
Kỳ đã ít nhiều đạt được sự đồng thuận về chính sách tái cân bằng sang Tây Thái
Bình Dương, và vị tổng thống tiếp theo của Hoa Kỳ dù là người của đảng nào thì
chính sách này vẫn nhiều khả năng được duy trì, có thể dưới một tên gọi khác.
Trong
bối cảnh đó, chính sách của Mỹ đối với Việt Nam cũng nhiều khả năng sẽ không
thay đổi. Tuy nhiên các biện pháp, sáng kiến cụ thể từ phía Mỹ như thế nào thì
chúng ta còn phải chờ xem, bởi nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa, trong
đó có lợi ích và nhu cầu hai phía, cũng như bản thân quan điểm của chính quyền
mới trong từng vấn đề cụ thể.
Tôi
tin rằng xu hướng chung của sự phát triển quan hệ song phương sẽ tiếp tục được
duy trì.
Điều
này là bởi nền chính trị Hoa Kỳ có các cơ chế mang tính cấu trúc và thể chế có
thể hạn chế quyền tự do hành động của các cá nhân. Quan trọng hơn, cho dù tổng
thống Mỹ tiếp theo là ai, thì lợi ích quốc gia, nền tảng của chính sách đối
ngoại Mỹ nói chung và chính sách của Mỹ đối với Việt Nam nói riêng, cũng sẽ ít thay đổi.
Trên
khía cạnh này, chuyến thăm của ông Obama cũng có ý nghĩa rất quan trọng bởi nó
góp phần làm sâu sắc và tăng cường hơn nữa quan hệ Việt – Mỹ. Khi quan hệ song
phương đạt tới một ngưỡng nào đó, thì các đời chính quyền sau càng khó có thể
đảo chiều hoặc làm xói mòn được mối quan hệ đó.
PGS-TS Alexander L. Vuving: Tôi nghĩ bất cứ tổng thống nào kế nhiệm
ông Obama đều sẽ thầm cảm ơn ông đã để lại di sản là một mối quan hệ tốt đẹp
với Việt Nam .
Mỗi
vị tổng thống kế nhiệm đều có thể đưa quan hệ Việt - Mỹ đi theo một hướng khác
nhau, nhưng nền tảng của sự đồng thuận và tin cậy chiến lược giữa hai nước được
xây dựng trong nhiệm kỳ của ông Obama thì tôi nghĩ không tổng thống nào lại dại
gì mà từ bỏ.
Xin cám ơn các ông đã dành thời
gian cho Tuần Việt Nam /Báo
VietnamNet.
Mỹ Hòa - Thu Hà thực hiện
Nhận xét