3960. Chính sách kinh tế qua nghị quyết đại hội XII
Chính
sách kinh tế qua nghị quyết đại hội XII
Tôn Thất
Thông
Cộng Hoà Liên Bang Đức
Cộng Hoà Liên Bang Đức
Đại hội lần thứ
XII đảng CSVN vừa chấm dứt không lâu. Trước đó người ta chờ đợi một biến chuyển
nào đấy dù lớn hay nhỏ về mặt chính sách, nhất là chính sách kinh tế. Đọc kỹ
nghị quyết thì chúng ta thấy trong văn kiện cực kỳ quan trọng này, nhiều câu
chữ được lập lại nhiều lần suốt nhiều đại hội trong quá khứ. Người đọc không có
cảm giác hân hoan chờ đón một thời kỳ mới với những chính sách cụ thể, và nhất
là qua câu chữ chúng ta không tìm thấy một nội dung cụ thể khả dĩ giúp cho cán
bộ các cấp định hướng công việc của họ.
Về mặt kinh tế,
nghị quyết ghi: “Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược (hoàn
thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới căn bản và toàn diện giáo
dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao;
xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ)[1]. Như vậy là đường lối cơ bản
về kinh tế vẫn không có gì thay đổi. Ở đây chúng ta chưa bàn đến tính chất hài
hòa hay mâu thuẩn đối chọi giữa hai vế của cụm từ ở trên: một bên là kinh tế thị trường và bên kia là định hướng xã hội chủ nghĩa.
Điều dễ thấy là, cốt lõi của các hoạt động kinh tế do nghị quyết đưa ra vẫn
không thay đổi: tiến đến nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, dù rằng mọi người, kể cả
những vị lãnh đạo cao nhất đều nhận thức được tính ưu việt của nền kinh tế thị
trường. Có người trong giới lãnh đạo còn gọi “kinh tế thị trường là tinh hoa
của kiến thức nhân loại”. Vậy chúng ta thử bàn thêm về hai vế của cụm từ ở
trên, may ra tìm được một hướng đi nào có ích chăng?
Kinh
tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa (XHCN)
“Cụm từ hai vế”
ấy xuất hiện lần đầu năm 2001 trong đại hội IX đảng CSVN, tức là cách đây 15
năm. Đấy là vấn đề ngôn từ, nhưng nếu xét về nội dung chính sách thì nó có
nguyên ủy sâu xa hơn: đi từ chính sách ghi trong nghị quyết khóa VI năm
1986 “Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước”, trở thành “Phát
triển một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN” ở
khóa VII[2].
Như vậy là đã 30
năm. Và sau 30 năm, nhiều nhược điểm của chính sách nói trên đã bộc lộ, nền
kinh tế quốc dân thay vì được vươn lên cho kịp các nước bạn trong khu vực, thì
khoảng cách giữa họ và Việt Nam ngày càng lớn. Trong buổi họp tổng kết thành
quả 30 năm đổi mới ngày 19.11.2015 tại Hà Nội, nguyên phó Thủ tướng Vũ Khoan
phát biểu: “Người Việt Nam chúng ta
thích tranh luận nhưng chỉ luẩn quẩn trong mấy chữ mà mất hai ba chục năm nay.
Ví dụ, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cãi nhau 30 năm chưa kết
thúc; rồi doanh nghiệp nhà nước là chủ đạo cũng cãi nhau 30 năm rồi không kết
thúc. Những chuyện này còn tranh luận dài dài, không biết đến bao giờ kết thúc
được[3]”. Và còn nhiều phê phán tương tự của những chuyên gia hàng đầu của Việt
Nam như ông Lưu Bích Hồ, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược, Bộ Kế hoạch và Đầu
tư: “những khái niệm như kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất
đai thuộc sở hữu toàn dân, kinh tế nhà nước là chủ đạo,… như ‘vòng kim cô’ ghì
chặt sự phát triển của đất nước[4]”.
Kinh tế Việt Nam vẫn trì trệ, rõ ràng vì không ai xác định được một nội
dung cụ thể cho chính sách chủ đạo cho nên mỗi cán bộ hiểu mỗi cách khác nhau,
lúc đưa ra quyết định thực hiện lại càng khác nhau xa. Có phải không ai gán
được nội dung cụ thể vì nhận thức kém, hay thực chất không thể gán được nội
dung vì tự bản chất chính sách đã mang sẵn mầm mống mâu thuẫn? Để trả lời câu
hỏi đó, chúng ta hãy trở lại lý thuyết gốc của hai hệ thống: kinh tế thị trường
và kinh tế XHCN. Mỗi hệ thống có những tính chất nền tảng khác nhau và có những
công cụ quản lý khác nhau. Kinh tế thị trường lấy tư hữu tư liệu sản xuất làm
nền tảng, trong lúc CNXH xem công hữu tư liệu sản xuất là mục đích hàng đầu cần
đạt tới. Kinh tế thị trường dùng chế độ cạnh tranh làm công cụ phát triển,
trong lúc CNXH xem kế hoạch trung ương là công cụ chủ đạo. Nói cho cùng thì thì
công cụ quản lý là hệ quả tất yếu khi đứng trên những tính chất nền tảng khác
nhau. Vậy chúng ta chỉ cần bàn đến những tính chất nền tảng, và có lẽ cũng chỉ
cần bàn đến tính chất quan
trọng nhất của nền kinh tế để
tìm một nội dung đích thực cho “cụm từ hai vế” ở trên: Tính chất đó là “sở
hữu tư liệu sản xuất”.
Vai
trò của sở hữu tư liệu sản xuất
Câu hỏi về sở hữu
tư liệu sản xuất (TLSX) là câu hỏi có ý nghĩa trung tâm về mọi chính sách kinh
tế. TLSX ở đây cần hiểu một cách toàn diện. Nó không chỉ giới hạn trong máy móc
phục vụ sản xuất mà còn bao gồm những phương tiện khác liên quan đến sản xuất,
thí dụ đất đai để làm kho bãi, nhà cửa để làm văn phòng hoặc cho thuê mướn, cả
trí tuệ cũng được xem là phương tiện sản xuất. Nói cách khác, khái niệm TLSX
bao gồm tất cả các loại phương tiện để phục vụ cho hoạt động kinh tế, những
hoạt động sinh ra lợi nhuận.
Ở đây chúng ta
phân biệt giữa sở hữu tư nhân, sở hữu tập thể và sở hữu nhà nước.
Sở hữu tập thể
TLSX và sở hữu nhà nước là công cụ sắc bén của một guồng máy sản xuất nhất
định, có khả năng tạo ra phương tiện cực kỳ hiệu quả để thành phần lãnh đạo
kinh tế có thể kiểm soát toàn bộ guồng máy sản xuất và từ đó chế ngự cả những
thành viên trong guồng máy đó, mở rộng quyền lực chính trị lên mọi thành phần
khác trong xã hội. Điều đáng chú ý hơn nữa của hai hình thái sở hữu này là, để
guồng máy có thể hoạt động hữu hiệu, nó đòi hỏi một sự điều khiển từ trung ương
lên quá trình hoạt động kinh tế cũng như lên kế hoạch sản xuất của từng đơn vị
riêng lẻ, dù ở đó sự điều khiển có thể xuất hiện ở một mức độ thấp hơn[5].
Ngược lại, trong
chế độ tư hữu TLSX, người sở hữu chỉ có thể chế ngự đơn vị hoạt động của mình,
chứ không thể tác động lên kế hoạch sản xuất các đơn vị khác, và càng không thể
điều khiển quá trình hoạt động kinh tế của toàn bộ guồng máy sản xuất trong xã
hội. Anh ta chỉ là một thành viên bình đẳng như mọi thành viên khác, và nhờ thế
tính cạnh tranh lành mạnh trên thị trường được bảo đảm, không ai chèn ép được
ai.
Như vậy, để kiến
tạo một trật tự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường, việc thừa nhận tư hữu
TLSX là điều bắt buộc, và trong toàn bộ nền kinh tế, khi tỉ lệ tư hữu TLSX càng
cao thì khả năng tạo dựng trật tự cạnh tranh lành mạnh càng lớn. Nói cách khác,
tư hữu TLSX là một trong những điều kiện tiên quyết của trật tự cạnh tranh trên
thị trường[6] hay nói một cách chính xác hơn thì nó là một
thuộc tính không thể thiếu được của kinh tế thị trường, lại là một thuộc tính
cực kỳ quan trọng.
Tất nhiên là nhà
nước cũng có quyền làm chủ một số đơn vị kinh tế thậm chí một số ngành như một
tư nhân nào khác, thí dụ hệ thống cung cấp điện nước, giao thông vận tải, ngân
hàng v.v… Điều này sẽ không làm rối loạn trật tự thị trường, nếu những đơn vị
kinh tế đó cũng ép mình vào trật tự cạnh tranh chung. Khi các đơn vị kinh tế
thuộc sở hữu nhà nước không sử dụng chế độ trợ cấp hoặc những ưu đãi khác để
nâng cao thế cạnh tranh nhất là trong việc định giá để cạnh tranh trên thị
trường, thì việc tồn tại các đơn vị kinh tế nhà nước là điều chấp nhận được[7] và thị trường cũng không vì thế mà bị rối loạn.
Tuy nhiên cần lưu ý là, khi tỉ lệ công hữu trong nền kinh tế càng cao, thì hiệu
quả sự điều tiết tính cạnh tranh thị trường càng giảm. Điều này tất yếu sẽ dẫn
đến những bất hợp lý về giá cả, tình trạng độc quyền sẽ xuất hiện, và nếu kéo
dài quá lâu thì đấy là mầm mống của trì trệ kinh tế.
Để làm rõ tác
động của tư hữu TLSX lên cơ chế tự điều tiết của thị trường, chúng ta hãy lấy
thí dụ về một xí nghiệp sản xuất thực phẩm. Nếu xí nghiệp này thuộc tư nhân thì
người chủ hãng – thường là giám đốc – phải xem xét hàng ngày mức tiêu thụ món
hàng mình sản xuất trên thị trường toàn ngành. Nếu mức tiêu thụ giảm sút, anh
ta phải nhanh chóng tinh giảm số lượng sản xuất, nếu không thì sản phẩm sẽ tồn
kho lâu, thực phẩm ung thối, xí nghiệp thua lỗ và trong nhiều trường hợp sẽ còn
ảnh hưởng làm sụt giá thị trường, vòng xoáy rối loạn bắt đầu chuyển động và có
thể dẫn đến phá sản cho hãng nào không kịp thời thay đổi. Đặc biệt trong những
ngành sản xuất tương tự, sự tinh tế về mức tiêu thụ hàng ngày trên thị trường
kết hợp với sự nhạy bén về quyết định kịp thời trong sản xuất là yếu tố cực kỳ
quan trọng để xí nghiệp hoạt động thành công.
Cũng trong thí dụ
ở trên, chuyện gì xảy ra khi xí nghiệp thuộc công hữu và giám đốc là công nhân
viên nhà nước? Cho dù phát hiện mức tiêu thụ giảm, người giám đốc cũng không có
quyết định nào khác hơn là tiếp tục sản xuất theo kế hoạch và chỉ tiêu đã được
cấp trên giao xuống. Hàng làm ra có bán được hay không anh ta không quan tâm vì
đấy là nhiệm vụ của xí nghiệp khác phụ trách việc phân phối. Hoặc cho dù người
giám đốc có muốn tinh giảm sản xuất để cứu vãn thị trường, đề nghị của anh ta
phải thuyết phục được cấp trên từ ban, đến ngành, đến bộ v.v… và nhận quyết
định ngược lại từ trên xuống dưới. Con đường hành chánh rườm rà và tốn thì giờ
này sẽ mất tính thời gian để kịp thời cứu vãn được điều gì. Như thế, với chế độ
công hữu TLSX, thị trường chỉ có thể ổn định khi mọi dự đoán cung cầu rất chính
xác và kế hoạch cấp trên từ trung ương đưa ra thật hoàn hảo. Nói một cách khác,
chúng ta chỉ mong có được “một nhà độc tài cực kỳ sáng suốt” không bao giờ sai
lầm. Trong trường hợp có sự cố bất thường[8] thì công hữu TLSX là yếu tố kìm hãm sự điều
tiết giữa cung và cầu, thúc đẩy rối loạn thị trường, làm kinh tế đình trệ.
Cũng cần nói thêm
rằng, biến động giá cả thị trường là những tín hiệu an-ten khẩn cấp để những ai
quan tâm kịp thời phản ứng. Tín hiệu này tất nhiên sẽ được những người đi tiếp
thị phát hiện trước hết. Quan tâm hàng đầu của một xí nghiệp tư nhân là tiếp thị
bán hàng. Sản xuất chỉ là phương tiện để phục vụ nhu cầu đó, cho nên sản xuất
luôn luôn được tối ưu hóa theo nhu cầu thị trường. Đấy là cơ chế tự điều chỉnh
giữa sản xuất và phân phối bán hàng. Chế độ công hữu TLSX thì khác. Xí nghiệp
phân phối không có nghiệm vụ báo cáo tình trạng thị trường cho xí nghiệp sản
xuất, và ngược lại xí nghiệp sản xuất cũng không được phép thay đổi kế hoạch
nếu không có lệnh từ cấp trên. Đường phản hồi từ thị trường về nơi sản xuất
không tồn tại thì cơ chế tự điều chỉnh cũng không hoạt động được, hoặc nó cũng
có thể được vận hành nhưng với một độ trì hoãn nhất định.
Thí dụ trên cắt
nghĩa được tại sao các nước hoặc các ngành có tỉ lệ công hữu TLSX cao không
phát triển nhanh bằng các nước hoặc các ngành có cùng điều kiện, nếu nơi đó chế
độ tư hữu TLSX chiếm đa số. Nếu chúng ta quan sát vài ngành trong đó có nhiều
loại sở hữu khác nhau, chúng ta đều thấy là tỉ lệ lợi nhuận các xí nghiệp tư
nhân thường cao hơn so với các xí nghiệp quốc doanh có cùng điều kiện kinh
doanh. Chúng ta hãy quan sát thêm các tập đoàn quốc doanh đang làm ăn thua lỗ.
Khi nhà nước quyết định cổ phần hóa cho tư nhân thì tập đoàn đó thường vươn dậy
trở lại sau một thời gian ngắn. Điều này chúng ta thấy rõ trong những ngành
quen thuộc như ngân hàng, giao thông vận tải, sản xuất xe hơi v.v… ở khắp nơi
trên thế giới.
Nói tóm lại, khi
chấp nhận hoạt động trong nền kinh tế thị trường, tư hữu TLSX là nhân tố quan
trọng hàng đầu để cơ chế hoạt động hữu hiệu.
Thừa nhận tư hữu
TLSX ở mức độ lớn và rải đều cho nhiều người không những mang lại lợi ích cho
những tư nhân đó, mà còn có lợi cho toàn xã hội và bảo đảm cơ chế cạnh tranh
thị trường hoạt đông hữu hiệu. Nó bảo đảm rằng, đứng trước một nhu cầu tiêu thụ
trong thị trường, tất yếu sẽ có nhiều xí nghiệp khác nhau độc lập quyết định
sản xuất và nếu cần họ sẽ đầu tư thêm tư bản và cơ sở vật chất để tìm cách cung
cấp sản phẩm hoặc dịch vụ mà xã hội đang cần với mức giá hợp lý[9]. Khi có nhiều xí
nghiệp khác nhau hoạt động độc lập trong đó mọi thành viên đều bình đẳng như
nhau và tôn trọng luật chơi đã thỏa thuận, thế quân bình về quyền lực kinh tế
sẽ dễ dàng được xác lập, thị
trường mở dần dần thành hình
và nền kinh tế có xu hướng ổn định lâu dài.
Sự ích lợi cho
toàn xã hội không chỉ hạn chế trong lượng hàng phong phú và giá cả tối ưu. Bản
thân sự kiện có nhiều xí nghiệp cùng quyết định song song nhưng độc lập với
nhau đã là một yếu tố kích thích sáng tạo và tiến bộ. Người chủ xí nghiệp
thường trực đặt cho mình nhiệm vụ là phải luôn luôn quyết định đúng, chọn qui
trình sản xuất phù hợp, giảm phế phẩm, khuyến khích công nhân, tổ chức sản xuất
tối ưu hợp lý v.v… để cung cấp sản phẩm và dịch vụ có chất lượng cao và giá cả
phù hợp với chờ đợi của giới tiêu thụ. Mỗi lần làm một quyết định sai lầm là họ
phải trả giá bằng tài sản của chính mình. Không
ngừng tiến bộ để tồn tại, đấy là tâm niệm của mọi người chủ xí nghiệp tư
nhân. Những tính chất ấy chúng ta khó tìm thấy trong những xí nghiệp quốc
doanh, nơi mà người giám đốc chỉ là công nhân viên nhà nước.
Thừa nhận quyền
tư hữu TLSX còn có tác dụng thúc đẩy đầu tư cơ sở vật chất, tức là một dạng làm
giàu cho xã hội. Thật khó hình dung một tập đoàn nào đó có thể bỏ ra hàng tỉ đô
la để xây dựng cơ sở sản xuất trên một vùng đất mà họ không chắc rằng các TLSX
đó sẽ vĩnh viễn thuộc quyền sở hữu của họ. Nếu quyền này được thừa nhận bởi
luật pháp, quyết định của họ sẽ dễ dàng hơn. Ở mức độ đầu tư thấp hơn như máy
móc hoặc các phương tiện bình thường khác, hiệu ứng cũng tương tự như thế.
Ở các nước phát
triển quyền tư hữu TLSX được thừa nhận không hạn chế, thường được ghi trong
hiến pháp và được qui định cụ thể trong các đạo luật kinh tế. Người sở hữu có
quyền sử dụng, thay đổi, cho thuê bán hoặc thậm chí phá hủy TLSX của mình, miễn
sao những hoạt động đó không vi phạm qui định của luật pháp. Quyền sở hữu không
hạn chế TLSX sẽ giúp cho doanh nghiệp có thể tự ý quyết định và lập kế hoạch
kinh doanh. Nếu quyền này bị một hạn chế nào đó, một số người sẽ ngần ngại và
không sẵn sàng chấp nhận rủi ro trong quá trình hoạt động kinh tế của họ, từ đó
các đầu tư quan trọng sẽ bị đẩy lùi về sau. Mọi hoạt động đều có tính chất ngắn
hạn, ăn xổi ở thì.
Bây giờ chúng ta
thử đặt câu hỏi: Liệu quyền tư hữu TLSX là một nhân tố luôn luôn bảo đảm cho trật tự cạnh tranh lành
mạnh hay không? Rõ ràng là không luôn
luôn. Hãy lấy một thí dụ: Khi một xí nghiệp tư nhân to lớn được xây dựng
trong một thành phố nơi đó toàn bộ lao động không đủ để cung ứng cho nhu cầu
nhân sự, xí nghiệp này sẽ trở thành kẻ độc
quyền tiêu thụ trong thị
trường lao động. Chúng ta khó mà tin cậy vào lòng tốt của những người đang nắm
quyền lực kinh tế ghê gớm đó. Thế cạnh tranh lành mạnh sẽ mất, đi kèm với những
hệ lụy xã hội tất yếu của nó mà kẻ gánh chịu là người lao động. Một thí dụ thứ
hai: Tập đoàn xe buýt A với một đội xe vĩ đại được phép hoạt động trong tỉnh B,
nơi các xí nghiệp xe buýt nhỏ chỉ chiếm một phần không đáng kể so với A. Tập
đoàn này sẽ nhanh chóng làm cho các xí nghiệp nhỏ phá sản và trở thành độc quyền cung cấp dịch vụ xe buýt. Chế độ cạnh tranh
thị trường không còn, giá cả có thể tăng vọt, giờ giấc tùy tiện v.v… và kẻ hứng
chịu mọi hệ lụy chính là người dân trong tỉnh B đang cần sử dụng dịch vụ này.
Cả hai hình thức
độc quyền ở trên - độc quyền cung cấp và độc quyền tiêu thụ - đều dẫn đến quyền
lực kinh tế vào trong tay một thiểu số rất nhỏ có khả năng thao túng thị trường
mà kẻ thiệt thòi là đại đa số người lao động yếu thế.
Các nghiên cứu
kinh tế đã chỉ ra rằng, tư hữu TLSX trong thế độc quyền trên thị trường sẽ sinh
ra những thiệt hại trầm trọng cho xã hội. Các tập đoàn tư nhân sẽ sử dụng quyền
lực kinh tế của mình để triệt hạ xí nghiệp cạnh tranh, áp đặt giá cả lên giới
tiêu thụ và thẳng tay bóc lột nhân viên của họ. Khi quyền lực kinh tế này trở
thành áp đảo thì nhà nước cũng bó tay khi tìm cách hạn chế thiệt hại[10]. Đấy là tình
trạng các nước công nghiệp trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, khi mà nền kinh tế
tư bản chủ nghĩa sơ khai còn trong giai đoạn được thả lỏng (laissez-faire).
Đời sống công nhân rất cùng cực, mất nhân phẩm và nếu chủ nghĩa tư bản cứ kéo
dài như thế thì nó không xứng đáng được tồn tại và quyền tư hữu TLSX không đáng
được bảo vệ.
Cuộc thay đổi bắt
đầu từ đầu thế kỷ 20 và được tiến hành triệt để trễ nhất là sau cuộc đại khủng
hoảng 1930. Kể từ đây các nước phát triển, từ những nước cực lớn như Mỹ đến các
nước tí hon như Luxemburg, đều nhận thức được rằng đã đến lúc chủ nghĩa tư bản
mà họ theo đuổi hàng nhiều thế kỷ cần phải được thay đổi sâu sắc. Họ đã nhận
thức được chỗ yếu của chính sách thả lỏng laissez-faire,
đã thấm thía đâu là nguy cơ của quyền lực kinh tế. Chỉ vài thập niên sau, nước
nào cũng có những cải tổ cơ cấu kinh tế mà quan trọng nhất là cải tổ hệ thống
luật pháp để ngăn chận liên minh độc quyền trong hoạt động kinh tế cũng như
nhiều đạo luật khác để xác lập cơ chế cạnh tranh lành mạnh trên thị trường. Một
số nước khác thì đi xa hơn trong những chính sách xã hội có khả năng tạo dựng
cho mỗi người một cuộc sống phồn vinh và bình đẳng như mọi người khác. Những
cải cách các nước Bắc Âu rất đáng để tham khảo.
Vì vậy khi bàn về
tư hữu TLSX để rút ra kết luận hòng đưa ra chính sách kinh tế phù hợp thì chúng
ta phải bàn về quyền tư hữu trong giai đoạn từ giữa thế kỷ 20, khi mà trật tự
thị trường đã thay đổi sâu sắc, chế độ cạnh tranh và mức độ liên minh độc quyền
được giám sát một cách chặt chẽ bởi luật pháp và những cơ quan trung lập. Bàn
tay quyền lực của nhà nước đã bị giới hạn, cũng như bàn tay thô bạo của những
tư nhân trong lợi thế độc quyền không còn sức mạnh tuyệt đối. Trong bối cảnh
đó, quyền tư hữu TLSX vừa là
thuộc tính của kinh tế thị trường, vừa là công cụ hữu hiệu để điều tiết thị
trường đạt ổn định một cách bền vững. Và cũng chỉ trong bối cảnh đó chúng
ta mới có thể quả quyết rằng, quyền tư hữu TLSX sẽ là động cơ thúc đẩy sáng
tạo, tiến bộ, nâng cao đầu tư dài hạn, mang lại lợi ích cho xã hội mà kẻ hưởng
lợi là thành phần lao động đông đảo.
Làm
gì với chính sách mới?
Như vậy dưới góc
nhìn của quyền sở hữu TLSX, kinh tế thị trường và định hướng XHCN là hai chính
sách đối lập nhau như nước và lửa, dựa vào những nguyên lý khác nhau như ngày
và đêm. Thúc đẩy nền kinh tế thị trường một cách thành công là tự nó sẽ thủ
tiêu kinh tế XHCN, và ngược lại, tiến đến thành công nền kinh tế XHCN thì kinh
tế thị trường sẽ không còn hoạt động được. Giữa hai vế của cụm từ nói trên khó
có một sự hài hòa khả dĩ được đứng chung với nhau. Thế mà cụm từ này vẫn tồn
tại 30 năm trên đất nước Việt Nam .
Tại sao?
Chúng ta có thể
đặt ra hai giả thuyết: thứ
nhất, vì một mối u hoài với giấc mơ XHCN mà các nhà làm chính sách gán thêm
vế định hướng XHCN vào chính sách kinh tế thị trường, nhưng thâm tâm họ cũng
không mấy tin. Hoặc thứ hai,
kinh tế thị trường chỉ là chiến thuật trước mắt để nâng cao đời sống và khi
tình hình cho phép thì nhà nước sẽ triệt hạ nó và tiến thẳng lên CNXH (có triệt
hạ được hay không lại là chuyện khác).
Có lẽ giả thuyết
thứ nhất có cơ sở hơn. Vậy để làm cho dân giàu nước mạnh, chuyên viên kinh tế
các cấp cứ tạm thời quên cái vế “định hướng XHCN” khi đưa ra các chính sách
trong mọi ngành hoạt động, tại mỗi địa phương, trong mọi thời kỳ. Cũng không
phải chỉ có lĩnh vực kinh tế, mà cả trong nhiều lĩnh vực khác, mà quan trọng
nhất là luật pháp cũng cần quên cái “định hướng” ấy. Chỉ như thế, Việt Nam
mới hy vọng vươn ra khỏi bế tắc triền miên hiện nay để hòa đồng vào cộng đồng
kinh tế thế giới.
Tôn Thất Thông
Cuối tháng giêng 2016
Cuối tháng giêng 2016
Nguồn: viet-studies
-----------------------------------------------------------------
Nguyễn Thông: Góp ý cho nhà
cầm quyền
-----------------------------------------------------------------
Nguyễn Thông: Góp ý cho nhà
cầm quyền
Nhà cầm quyền xứ này từng rất sai lầm
khi chủ trương làm kinh tế theo kiểu kế hoạch hóa tập trung, tức là ngay từ đầu
luôn đưa ra những con số cụ thể, bắt phải làm cho bằng được mà không cần đếm
xỉa gì đến hoàn cảnh, điều kiện khách quan và chủ quan. Và họ đã thất bại cay
đắng; phải chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường (mặc dù còn rất e dè, nửa vời,
cải lương, tốn thời gian).
Nay tôi thấy anh Thăng (Bí thư thành ủy TP.HCM) chưa thoát ra
khỏi tư duy đó. Hôm qua 17.2, anh ấy làm việc với Công an thành phố, chỉ đạo
(thực chất là ra lệnh) trong 3 tháng tới công an phải kéo giảm cho được tình
hình tội phạm, kết quả phải thật rõ rệt. Anh ấy mới về, chưa nắm được hết, yêu
cầu như vậy là cảm tính, duy lý. Một thành phố như Sài Gòn, lâu nay chỉ thấy
báo chí đưa tin hiệp sĩ này, hiệp sĩ khác bắt cướp thay công an thì yêu cầu như
thế với công an là hơi cao, hơi nhanh, hơi nhiều.
Hãy rút kinh nghiệm việc Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Đức Chung hôm
trước Tết chỉ đạo buộc các siêu thị phải bán hàng cả vào ngày mùng 1 tết. Đó là
cách chỉ đạo của thiếu tướng công an chứ không phải một ngài đô trưởng dân sự,
và đậm đặc tinh thần của cách quản lý, làm kinh tế theo kiểu tập trung, bao cấp
ngày xưa.
Mỗi chúng ta, dù muốn hay không muốn, ưa hay không ưa những vị
lãnh đạo đương nhiệm, cũng nên có trách nhiệm góp ý với họ, để họ làm tốt hơn.
Dù sao thì họ cũng đang nắm quyền.
Nguyễn Thông/Blog Nguyễn Thông
Nhận xét