3706. Câu chuyện hòa giải
Câu chuyện hòa
giải
Thứ Năm, ngày 17 /12 /2015
Tác
giả: Nguyễn Quang Dy
“Nhân lễ
Giáng sinh 2015, xin kính tặng các cựu chiến binh của cả hai phía đã thoát khỏi
ngây thơ (innocence) và trưởng thành (mature) từ cuộc Chiến tranh Việt Nam ,
để trở thành các sứ giả của hòa bình và hòa giải” (Nguyễn Quang Dy)
Đất nước đã
thống nhất nhưng dân tộc vẫn chưa hòa giải. 40 năm sau, vết thương chiến tranh
vẫn chưa lành, đất nước vẫn chia rẽ và tụt hậu (trước nguy cơ Bắc thuộc), và
con người đối xử với nhau (và với thiên nhiên) ngày càng vô cảm và bạo lực.
Muốn hòa giải, phải xóa bỏ cực đoan trong tư duy, từ bỏ hận thù trong lòng và
bạo lực trong hành động, để đất nước độc lập, dân chủ và giàu mạnh, để người
dân hạnh phúc và ấm no (như mong ước của cụ Hồ).
Hòa giải với Mỹ
20 năm sau
chiến tranh, Việt Nam
và Mỹ đã chính thức bình thường hóa quan hệ ngoại giao (11/7/1995), tuy dư chấn
chiến tranh vẫn chưa hết. Đến năm 2000 (thực sự là 2007) hai nước mới chính
thức bình thường hóa quan hệ thương mại (PNTR). Thậm chí 40 năm sau, bóng ma
chiến tranh vẫn còn ám ảnh cả hai phía, nhiều người vẫn còn là “tù binh của quá
khứ”. Hòa giải khó hơn và lâu hơn bình thường hóa. Nó là một quá trình đau khổ.
Kỷ niệm 20
năm bình thường hóa, nhiều người quên rằng năm 1978, Việt nNm đã bỏ lỡ cơ hội
bình thường hóa với Mỹ (chỉ trong gang tấc) nên đã dẫn đến bi kịch “Chiến tranh
Đông dương lần thứ ba” với “brother enemy” (Trung Quốc) và “đồng minh” (Khmer
Đỏ) được Mỹ, Phương Tây và ASEAN ngầm ủng hộ. Chậm hòa giải và bình thường hóa
với Mỹ đã dẫn đến bi kịch chiến tranh một lần nữa, “vắt kiệt máu” một dân tộc
vốn đã kiệt sức.
Còn bây giờ,
Viêt Nam không còn lựa chọn, phải thỏa thuận tham gia TPP để cứu vãn nền kinh
tế đang khủng hoảng và lệ thuộc quá sâu vào Trung Quốc, và để trở thành đối tác
chiến lược của Mỹ nhằm cân bằng và đối trọng với Trung Quốc đang đe dọa chủ
quyền. Nhưng bóng ma chiến tranh vẫn còn ám ảnh, làm nhiều người sợ “diễn biến
hòa bình” như sợ một “con ngoáo ộp” đối với những người mắc chứng tâm thần phân
liệt (“vừa đ…vừa run”). Trong tâm thức, họ vẫn sợ Mỹ lấy mất cái “bảo bối XHCN”
đã bị mối xông mục ruỗng.
Người ta nói
“Chiến tranh không chấm dứt khi ngừng tiếng súng” (diễn văn của đại sứ Pete
Peterson, 2001). Chiến tranh chỉ thực sự chấm dứt khi hai bên hòa giải được với
nhau. Nhưng hòa giải không chỉ diễn ra trên bàn đàm phán, giữa hai chính phủ,
mà nó còn diễn ra trên chiến trường xưa, giữa những người cựu chiến binh đã
từng bắn giết lẫn nhau, và trong lòng những người thân của họ, ở cả hai phía.
Nó đòi hỏi vươt qua thù hận.
Chính những
cựu chiến binh lại ít thù hận và dễ hòa giải. Nhà văn Wayne Karlin (ở Maryland ) và đạo diến
Trần Văn Thủy (ở Hà Nội) là một ví dụ. Wayne
từng là xạ thủ súng máy trên trực thăng, săn lùng Việt Cộng tại chiến trường
Quảng Nam .
Thủy là lính quay phim Việt Cộng, từng chạy trốn trực thăng và thoát chết nhiều
lần tại chiến trường đó. Lúc đó họ đã có thể giết nhau (như những người khác).
Nhưng họ đã sống sót, và sau chiến tranh đã tình cờ gặp nhau và trở thành bạn
thân. Họ đã viết truyện, làm phim về chiến tranh, nhưng để kêu gọi hòa bình và
hòa giải. Tình bạn của họ là một câu chuyện hòa giải bằng xương bằng thịt.
John Kerry,
John McCain, Pete Peterson, Bobby Muller (và nhiều người khác) cũng là những
cựu chiến binh, đã từng bị thương, bị tù đày, bị mất đôi chân tại chiến trường
Việt Nam. Họ có quyền thù hận phía bên kia, nhưng chính họ đã dẫn đầu quá trình
hòa giải. Họ khác với Robert McNamara đã từng tham chiến trong văn phòng máy
lạnh, nhưng phải 20 năm sau (1995) ông ấy mới đủ dũng cảm hòa giải với chính
mình, để thừa nhận sai lầm.
Thomas
Vallely (một cựu chiến binh ở Massachusetts), đã nói tại Đà Nẵng năm 1985
(trong phim tài liệu của Northern Lights), “Chính tại Việt Nam tôi đã hiểu ra
rằng… chúng ta không nên đưa thanh niên vào chỗ chết, chỉ vì lòng tự hào của
mấy lão già” (It is in Vietnam that I have learned … We should not be in the
businees of sending young men to die for old men’s pride”. Nhưng người Mỹ vẫn
không học được bài học đó. Họ tiếp tục đưa thanh niên Mỹ vào chỗ chết ở Iraq và Afghanistan
và bị sa lầy taị đó (như trước đây tại Việt Nam ). Họ đã không tiêu diệt được
khủng bố mà còn làm cho ISIS mạnh lên, trở
thành hiểm họa toàn cầu.
Hòa giải thực
sự phải toàn diện, không chỉ bao gồm ngoại giao, thương mại, đầu tư, mà còn cả
quân sự, chính trị, văn hóa, nghệ thuật, giáo dục… Sau 20 năm bình thường hóa,
đã có 16.500 sinh viên Việt Nam
du học tại Mỹ (đông nhất trong số các nước Đông Nam Á). Dự án Đại học Fulbright
(mà chương trình FETP là nòng cốt) cuối cùng đã được hai chính phủ chấp thuận,
sau bao nhiêu năm không tiến triển được bước nào (có lẽ vì sợ “diễn biến hòa
bình”). Cùng với thỏa thận TPP, Đại học Fulbright là một tin mừng. Hòa giải
thực sự phải dựa trên hợp tác toàn diện, để xây dưng cả “sức mạnh mềm” lẫn “sức
mạnh cứng”.
Hòa giải với
Trung Quốc
Sau một thập niên
coi nhau như “kẻ thù nguy hiểm nhât” trong bi kịch “Chiến tranh Đông dương lần
thứ ba” (1979-1990), Việt Nam đã bình thường hóa với Trung Quốc, với thỏa thuận
Thành Đô (9/1990) đi vào lịch sử, mở ra “một thời kỳ bắc thuộc mới nguy hiểm”
(theo cố ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch). Đó là quá trình bình thường hóa “không
bình thường”, dựa trên tư duy cực đoan và ấu trĩ vì ý thức hệ (chứ không phải
vì lợi ích quốc gia). Họ đã nhảy từ thái cực này sang thái cực khác, từ anh em
khăng khít “như môi với răng” đã trở thành “kẻ thù nguy hiểm nhất”, rồi nay lại
trở thành đồng minh chiến lược, “đồng chí bốn tốt” với “16 chữ vàng”.
Quá trình
bình thường hóa đó dựa trên một tầm nhìn thiển cận đầy ngộ nhận, giữa lãnh đạo
hai nước cộng sản, chứ đâu phải hòa giải giữa hai dân tộc láng giềng, sau một
cuộc chiến đẫm máu. Còn nhớ năm 1978-1979, gần một triệu người Hoa đã từng sinh
sống tại Việt Nam suốt mấy thế hệ bỗng nhiên trở thành “nạn kiều” trong một
cuộc chiến tranh mà chính họ không hiểu, nhưng là nạn nhân vô tội, bị xua đuổi
khỏi Việt Nam trong một chiến dịch “bài Hoa” tàn nhẫn. Tuy không thay đổi được
quá khứ, nhưng phải hòa giải với nhau để bỏ qua hận thù, mới có thể bắc nhịp
cầu mới cho một tương lai tử tế hơn. Bởi vì hận thù giữa hai dân tộc láng giềng
là mồi ngon cho chủ nghĩa dân tộc cực đoan và bành trướng bá quyền.
Chỉ bình
thường hóa chính thức giữa hai nhà nước (dựa trên ý thức hệ để duy trì chế độ),
mà thiếu hòa giải thực sự giữa hai dân tộc (dựa trên hợp tác bình đẳng và tôn
trọng lẫn nhau) thì không thể bền vững. Bằng chứng là chỉ sau hai thập niên,
quan hệ hai nước lại rạn nứt và khủng hoảng, trước nguy cơ xung đột mới tại
Biển Đông và biên giới. Những mâu thuẫn tiềm ẩn bị che đậy mà không được hóa
giải, sẽ lại bộc lộ, trở thành nguy hiểm hơn.
Nếu so sánh,
người ta dễ thấy có sự bất cập giữa hai quá trình hòa giải với Mỹ và Trung
Quốc. Trong khi đối với Mỹ, hòa giải giữa hai chính phủ chậm chạp và khó khăn
như bị trầm cảm hay ma ám, thì đối với Trung Quốc, hòa giải giữa hai đảng lại
hấp tấp và nông nổi như ngáo đá (uống phải “thuốc lắc”). Phải chăng là vì ý
thức hệ? Trong khi đó người dân Việt Nam lại dễ hòa giải và hòa hợp với
người Mỹ (tuy xa) hơn là với người Trung Quốc (tuy gần). Phải chăng là do sức
mạnh mềm (như thể thao, âm nhạc, phim ảnh, giáo dục, và quyền con người) là
những gia vị thiết yếu làm xúc tác cho quá trình hòa giải và hòa hợp giữa các
dân tộc?
Trung Quốc có
rất nhiều tiền và hàng hóa (là sức mạnh cứng), nhưng lại thiếu những thứ gia vị
đó (là sức mạnh mềm) để hấp dẫn người dân (cả Việt Nam lẫn Trung Quốc). Tại sao nhiều
người Việt Nam
(và Trung Quốc) không muốn sống ở đất nước mình, mà cứ muốn di cư sang Mỹ và
các nước phương Tây khác? Không phải chỉ có người dân, mà cả các quan chức
trung thành với chế độ cũng đang làm như vậy (sau khi tranh thủ vơ vét làm
giàu).
Có thể rút ra
mấy nhận xét. Thứ nhất, một xã hội tuy giàu có về vật chất nhưng lại nghèo nàn
và bất ổn về tinh thần không phải là một môi trường đáng sống. Thứ hai, không
thể thực sự hòa giải với bên ngoài, nếu không thực sự hòa giải với bên trong.
Thứ ba, xét cho cùng thì hòa giải với bên ngoài hay với bên trong đều dựa trên
cùng một tiền đề là phải xóa bỏ hận thù và định kiến, cực đoan và bạo lực, tham
lam và mù quáng (hay “tham, sân, si”).
Hòa giải dân
tộc
Trong khi
Việt Nam
đã chính thức bình thường hóa và hòa giải (được một phần) với Mỹ và Trung Quốc,
thì đáng tiếc là hai cộng đồng người Việt (trong nước và ngoài nước) vẫn chưa
hòa giải được với nhau. Thậm chí trong cùng một cộng đồng, các phe nhóm khác
nhau vẫn chia rẽ chống đối nhau kịch liệt như kẻ thù. Phải chăng đó là bản chất
cực đoan của người Việt (do cội nguồn lịch sử) không chấp nhận trung lập (hay
Trung đạo).
Xét về bản
chất thì những người cộng sản cực đoan và chống cộng cực đoan đều rất giống
nhau, vì cùng mắc căn bệnh tâm thần phân liệt và hoang tưởng rất khó điều trị.
Câu chuyện “Terror in Little Sài Gòn” là một ví dụ (về phía “bên kia”), đến bây
giờ vẫn chưa hòa giải và hóa giải được. Câu chuyện “Chân dung quyền lực” là một
ví dụ khác (về phía “bên này”), phản ánh tranh chấp quyền lực liên miên hầu như
không có hồi kết. Có lẽ đó là sự khác biệt căn bản giữa người Việt Nam với người
Miến Điện, khi cần phải hòa giải vì lơi ích dân tộc. Trong khi họ đặt lợi ích
dân tộc lên trên, thì chúng ta đặt lợi ích dân tộc xuống dưới.
Trong khi bỏ
qua những vấn đề lớn liên quan đến vận mệnh quốc gia, thì nhiều người vẫn cực
đoan và cố chấp về những vấn đề cụ thể, không chịu nhân nhượng (như nguyên tắc
cứng nhắc). Có lẽ sự nhầm lẫn giữa mục đích và phương tiện, giữa chiến lược và
sách lược là một nguyên nhân, mà suy cho cùng đều do cái gốc cực đoan và cố
chấp. Kinh tế thị trường “theo định hướng XHCN” thực chất chỉ là cái vỏ che đậy
độc quyền và lợi ích nhóm.
Thật khó lý
giải tại sao người Việt sẵn sàng “bỏ qua quá khứ” (dù nói miệng) để hòa giải
với người Mỹ, nhưng giữa người Việt với nhau lại không thể bỏ qua quá khứ và
hận thù. Đối với tội ác chiến tranh của TQ thì dễ dàng “quên” không nhắc tới
(kể cả trong sách giáo khoa), nhưng lại nhớ dai nhấn mạnh tội ác chiến tranh
của Mỹ trong phim ảnh và tại các bảo tàng chiến tranh. Và sau 40 năm, vẫn tiếp
tục phân biệt đối xử với những người “lính ngụy”, kể cả khi họ đã chết (như đối
với “nghĩa trang ngụy” tại Biên Hòa). Điều đó vừa không phù hợp với truyền
thống dân tộc trong lịch sử (“lấy trí nhân để thay cường bạo”) vừa không đúng
với tinh thần “hòa giải, hòa hợp dân tộc” (trong Hiệp định Paris , 1973).
Để hóa giải
hố ngăn cách giữa cộng đồng người Việt trong nước và ngoài nước, không phải chỉ
bằng điều chỉnh chủ trương đường lối (như “nghị quyết 36”) mà phải bằng hành
động cụ thể có thiện chí thực sự. Tuy không thay đổi được quá khứ đau buồn (như
trại cải tạo sau 1975), tuy không cần phải “đốt tráp” (đựng danh sách phản
động) như vua Trần ngày xưa, nhưng cần phải hòa giải với những cựu chiến binh
của “phía bên kia”, dù họ còn sống hay đã chết (tại Biên Hòa hay tại Hoàng Sa).
Tại sao các cựu chiến binh Việt Nam
và Mỹ có thể hòa giải được với nhau, mà các cựu chiến binh Việt nam của hai
phía lại không làm được?
Nguyên nhân
và lối thoát
Muốn hòa giải
dân tộc, trước hết phải hiểu tại sao quá trình này vẫn khó khăn và thất bại,
mặc dù đã có “chủ trương” (bằng văn bản). Nếu coi chủ trương đó chỉ là sách
lược để lừa nhau nhằm giành lợi thế trong trò chơi quyền lực, thì đã đến lúc cả
hai phía phải thực sự thành tâm với nhau. Bởi vì, hòa giải dân tộc không phải
là sách lược, mà là điều kiện sống còn để thay đổi vận mệnh quốc gia. Trên thế
giới có quá nhiều bài học kinh nghiệm.
Đối với Việt Nam thì việc
hòa giải lại càng khó, đòi hỏi một tầm nhìn xa hơn và dân trí cao hơn. Lịch sử
Viêt Nam từ thời Hậu Lê trở đi (cho đến gần đây) có nhiều bước ngoặt bất hạnh,
dẫn đến chia cắt đất nươc thành hai miền, chiến tranh và xung đột liên miên,
vừa với kẻ thù bên ngoài (Trung Quốc) vừa với kẻ thù bên trong (nội chiến).
Trong bối cảnh bất an đó, người Việt đã bị xô đẩy theo xu hướng ngày càng cực
đoan và bạo lực, luôn nghi kỵ và hận thù, xa dần tư tưởng Trung đạo và nhân đạo
mà đỉnh cao là triều đại Lý và Trần. Các triều đại sau này ngày càng suy thoái,
không những do bài ngoại, mà còn do chấp nội, thành hủ nho.
Trong bối
cảnh lịch sử đó, các cơ hội cải cách và chấn hưng đã bị thui chột và thất bại,
nên Việt Nam mới dễ dàng trở thành thuộc địa của Pháp, khác với Nhật Bản đã cải
cách thành công dưới thời Minh Trị, trở thành một cường quốc mới ở Đông Á. Xu
hướng cách mạng ở Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nặng nề bởi tư tưởng cách mạng cực
đoan du nhập từ Pháp, Nga, và Trung Quốc, đặc biệt là thời Stalin và Mao Trạch
Đông. Đối với trí thức và người giàu thì “đào tận gốc, trốc tận rễ”. Đối với kẻ
thù thì “thù muôn đời muôn kiếp không tan”. Những tư tưởng cực đoan đó như
thuốc độc ngấm dần vào cơ thể và tâm thức người Việt.
Vì vậy, muốn
thay đổi chỉ có cách phải giải độc, giải thoát khỏi tư tưởng cực đoan và cuồng
tín, lòng hận thù và nghi kỵ, thói quen bạo lực và tham lam. Cực đoan và cuồng
tín là biểu hiện của tầng văn hóa sơ khai và một não trạng bệnh hoạn, là mảnh
đât tốt cho hận thù và bạo lực. Vì vậy, một quốc gia văn minh không thể gồm các
cộng đồng thừa hận thù nhưng thiếu nhân ái và không tôn trọng nhân cách và nhân
quyền. Chừng nào con người chưa bớt cố chấp, chưa thể sống tử tế và nhân ái với
nhau thì chưa thể có hòa giải thực sự. Muốn hòa giải được với người khác, thì
trước hết mỗi người phải tự hóa giải chính mình.
Sắp đến đạị
hôi Đảng XII, vẫn còn nhiều người muốn đóng góp ý kiến. Dù sao, đó là một dấu
hiệu đáng mừng, còn hơn là không có ai quan tâm vì người dân vô cảm quay lưng
lại với thời cuộc. Vấn đề là có người nói, nhưng phải có người nghe, vì vô cảm
không nghe còn nguy hiểm hơn là vô cảm không nói. Quá trình phản biện về chính
trị cũng phản ánh thực trạng hòa giải của đất nước. Hy vọng Viêt Nam không thua
quá xa Miến Điện.
Sắp đến ngày
Thiên chúa Giáng sinh, và cũng sắp hết năm Ất Mùi đầy kịch tính, thời điểm giao
mùa của “thay đổi khí hậu” đang trở thành mối lo toàn cầu. Hy vọng mỗi người
bớt cực đoan một chút, bớt thù hận một chút, bớt tham lam một chút và bớt chấp
đi môt chút, may ra đất nước này mới có thể hòa giải và thoát khỏi kiếp nạn
(karma) Bắc thuộc.
Nguyễn Quang
Dy
15/12/2015
Tác giả gửi
cho viet-studies ngày 15-12-15
(Viet-studies)
Nhận xét