PNTB: Đọc bài của ông này lại thấy thêm một chuyện "phú quý giật lùi". Nên mới có ước mơ: "Bao giờ cho đến ngày xưa!"
KD: Ts Vũ Trọng Khải gửi cho mình bài viết rất
sinh động, về một quan niệm liên quan đến tư pháp xuất phát từ thực tiễn - đó là
cần chuyển trại giam cho ngành Tư pháp quản lý - chứ không phải là ngành Công an.
Coi như là một kiến nghị hợp lý hợp tình,
trước thực tế của ngành chức năng hiện nay có nhiều điều cần bàn cãi, trao đổi.
Cảm ơn Ts Vũ Trọng Khải
******************************
Tôi là con út trong một gia đình có 4
anh, chị em. Chị gái trên tôi lớn hơn tôi tới 7 tuổi. Trên chị gái tôi
là 2 người anh trai. Như vậy là ba mẹ tôi đã “có nếp, có tẻ”, nên lẽ
ra tôi đã không có mặt trên đời. Rồi ba mẹ tôi lại muốn có 1 bé gái
nữa, cho đủ 2 trai, 2 gái. Không ngờ người con út của ba mẹ tôi lại
là cái thằng tôi.
Vì thế, tuy đã 4-5 tuổi (vào khoảng năm
1949-1950), ba mẹ tôi vẫn cho tôi mặc đồ bé gái, với mái tóc dài,
quăn lượn sóng, bóng mượt và khuôn mặt bầu bĩnh. Cứ đến chợ phiên ở
làng (thuộc vùng tự do, tôi không nhớ rõ tên) mấy anh tù thường phạm
được phép ra chợ chơi và mua ít đồ, lại bế tôi theo. Họ đố mọi
người “bé này trai hay gái?”. Kẻ bảo tôi là bé gái, thua cuộc, phải
mời mọi người thắng cuộc, bảo tôi là bé trai, 01 bát (tô) phở. Và
dĩ nhiên, mấy anh tù thường phạm này với tư cách là “nhà cái”, luôn
thắng cuộc, nên được ăn phở miễn phí!
Ấy là cái thời bộ tư pháp quản lý trại giam tù nhân.
Lúc đó, ba tôi là giám đốc tư pháp khu 10 (gồm các tỉnh Phúc Yên,
Vĩnh Yên, Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai, Tuyên Quang, Hà Giang), nên là cấp
trên phụ trách mấy vị quản lý trại giam. Vì thế mấy anh tù thường
phạm, không gây nguy hiểm cho xã hội, mới đóng được vai “nhà cái”
trong cuộc cá độ “bé gái hay trai”.
Khi đã thành án, tù nhân trong nhà tù do ngành tư pháp
quản lý chỉ mất quyền công dân, không mất quyền con người. Họ được
cải tạo để sớm hoàn lương, chứ không phải “tôi luyện” để trở nên hung
ác, tàn bạo hơn sau khi ra tù. Các công an viên không thể đến trại giam
để dùng nhục hình, bức cung, buộc họ nhận thêm tội này hay tội khác
với lời hứa suông “sẽ được giảm án”.
Mặt khác, do trại giam thuộc quyền quản
lý của ngành tư pháp, nên công an viên muốn bắt người, buộc phải làm
đúng thủ tục pháp lý theo luật tố tụng hình sự. Nếu tùy tiện bắt
giam người, trại giam sẽ không nhận kẻ bị công an viên bắt. Trong thời
gian tạm giam, công an viên đến nhà tù để xét hỏi, lập hồ sơ truy tố,
không thể mớm cung hay dùng nhục hình buộc tội nghi phạm nhận tội
theo ý mình, để lập thành tích “phá án nhanh”. Hết hạn tù theo bản
án đã tuyên của tòa, hay hết thời hạn tạm giam theo luật định, trại
giam đương nhiên trả tự do cho tù nhân, không cần có quyết định của
bất kỳ ai.
Nhưng Bộ tư pháp đã bị giải thể năm
1960, người ta giao cho Bộ Công an quản lý trại giam. Từ đó đã xảy ra
nhiều vụ án oan sai, nhiều vụ ép cung, dùng nhục hình đối với kẻ
bị nghi phạm tội, để lập “thành tích phá án nhanh” hoặc buộc phạm
nhân đã thành án phải nhận thêm tội này hay tội khác…, nhiều người
dân bị chết trong đồn công an… Tình trạng này đã được các phương tiện
thông tin đại chúng loan truyền rộng rãi trong thời gian qua, gây bức
xúc, bất bình, phẫn nộ trong xã hội. Thế mà, người ta vẫn cứ hô
hào cải cách tư pháp để xây dựng “nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa”.
Thật ra, có những điều rất đơn giản,
hiển nhiên đã được thực thi rộng rãi trên thế giới, và ở Việt Nam từ
trước năm 1960, không liên quan gì đến ý thức hệ, đến chủ nghĩa
Mác-Lênin, đã góp phần không nhỏ trong việc ngăn ngừa sự lạm quyền
của những người thi hành công vụ trong việc bắt người, điều tra xét
hỏi, và xử án, thi hành án… Những quy định ngăn chặn lạm quyền này
dựa trên cơ sở quản trị học, chứ chưa phải dựa trên lý thuyết tam
quyền phân lập.
1. Kế toán viên không thể kiêm nhiệm thủ
quỹ, thủ kho. Ai cũng biết trong một tổ chức, nhất là tổ chức có
nhiều chủ thể sở hữu, kế toán viên không được kiêm nhiệm thủ kho,
thủ quỹ. Quản trị học đã chỉ ra rằng, kế toán viên là người làm
thủ tục “xuất, nhập” tiền và vật tư, nếu kiêm nhiệm thủ quỹ, thủ
kho, dễ dẫn đến việc tham ô, xuất nhập tiền, vật tư sai quy định của
pháp luật và tổ chức đó.
Điều này ai cũng biết. Tương tự, trong tư
pháp, nếu công an viên là người làm thủ tục và thực thi việc bắt
giam, điều tra, xét hỏi kẻ bị họ nghi là có tội (hành vi này tương
tự như kế toán viên làm thủ tục “xuất, nhập” tiền và vật tư), lại
trực tiếp quản lý trại giam cả trong giai đoạn chưa thành án và giai
đoạn sau thành án (tương tự như thủ kho, thủ quỹ), thì việc oan sai
và dùng nhục hình trong điều tra xét hỏi và cả trong giai đoạn thi
hành án (sau khi bản án do toà án tuyên có hiệu lực) là dễ xảy ra
như ta đã thấy.
Vì vậy, trại giam phải luôn do ngành tư
pháp quản lý. Người quản lý trại giam thuộc bộ hay sở tư pháp đương
nhiên sẽ phải quản lý cả kẻ bị nghi có tội và phạm nhân theo theo
luật và quy chế của trại giam. Công an viên điều tra, xét hỏi kẻ bị
nghi có tội đến xét hỏi ở trại giam dưới sự giám sát, thực thi quy
chế quản lý của người quản lý trại giam thuộc ngành tư pháp. Họ
không bao giờ để cho công an viên điều tra dùng nhục hình ép cung kẻ
bị nghi có tội. Sau khi thành án, người quản lý trại giam không bao
giờ lại ép tù nhân phải nhận thêm tội này hay tội khác. Tội của họ
chỉ duy nhất có trong bản án có hiệu lực pháp lý do tòa án tuyên.
Tôi còn nhớ năm 1976, tòa của Hà Nội xử
ông Tạ Đình Đề. Bà Phùng Lê Trân chủ tọa phiên tòa đã hỏi ông Đề
(đại ý): sao trong tù anh đã khai nhận tội, nay lại phản cung, bác
lại tất cả lời khai trước đây đã ghi trong hồ sơ vụ án. Ông Đề đã
điềm tĩnh trả lời dõng dạc: Thử hỏi, nếu tôi không nhận hết tội
theo ý điều tra viên thì liệu có phiên tòa hôm nay không? Mà theo luật,
lời khai trước tòa có giá trị pháp lý cao hơn lời khai trong trại
giam. Việc dùng nhục hình bức cung đã xảy ra phổ biến từ khi trại
giam do bộ công an quản lý.
Hiện nay, có người đề xuất giao lại
trại giam cho bộ tư pháp quản lý, nhưng không được chấp nhận với lý
do là bộ tư pháp không có đủ bộ máy nhân sự để quản lý trại giam
(?). Thử hỏi, thời kháng chiến chống Pháp, nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa mới được hình thành, tại sao bộ Tư pháp đã quản lý trại
giam tốt như vậy, cải tạo tù nhân, chứ không biến họ thành kẻ căm
thù đời, trả thù đời. Ở các nước phát triển, nhà tù còn do tư nhân
đầu tư xây dựng và quản lý. Chính phủ hay tòa án đã thuê các nhà
tù tư nhân giam giữ, cải tạo tù nhân, làm giảm gánh nặng cho ngân
sách và bộ máy nhà nước. Bây giờ, điều đó người ta gọi bằng mỹ từ
“xã hội hóa”, thay vì “tư nhân hóa” các hoạt động của xã hội dân sự
dưới sự quản lý của nhà nước pháp quyền.
2. Tòa án được thiết lập theo vùng.
Để tránh sự can thiệp của cơ quan hành pháp (chính quyền
các cấp huyện, tỉnh), người ta thành lập tòa án 3 cấp theo vùng,
không theo đơn vị hành chính. Tùy theo qui mô dân số và yếu tố địa
lí, giao thông, các tòa án sơ thẩm liên huyện, phúc thẩm liên tỉnh
được thiết lập. Và bên cạnh mỗi tòa án là viện công tố chứ không
phải là viện kiểm sát vừa đóng vai trò công tố (buộc tội) vừa đóng
vai trò kiểm tra hoạt động tư pháp theo kiểu “vừa đá bóng, vừa thổi
còi”.
3. Thẩm phán do chủ tịch nước bổ nhiệm,
nhưng không theo nhiệm kì quốc hội hay chủ tịch nước. Chế độ thẩm
phán suốt đời đảm bảo tính độc lập xét xử của họ. Họ chỉ bị bãi
nhiệm khi không còn đủ sức khỏe hay phạm tội do một tòa án riêng xét
xử.
4. Việc bồi dưỡng thường xuyên để nâng
cao năng lực của thẩm phán do ngành tư pháp đảm nhiệm, nhất là bồi
dưỡng theo phương pháp tình huống (case study), phân tích đánh giá các
án lệ… Trong thời gian làm giám đốc tư pháp khu 10, ba tôi đã rất
tích cực và thành công trong việc bồi dưỡng nâng cao năng lực của thẩm
phán các tòa án trong khu 10. Rất tiếc là sau cuộc tranh luận với ông
Quang Đạm trên báo Sự thật về vai trò độc lập của tư pháp, ba tôi đã
không còn giữ chức giám đốc tư pháp khu 10 nữa.
5. Để thật sự chống dùng nhục hình ép
cung, việc xét hỏi, lập hồ sơ vụ án của điều tra viên phải được
thực hiện khi có luật sư; biên bản lấy cung phải có chữ kí của luật
sư sẽ mới có giá trị pháp lý. Ước muốn này có “xa xỉ” quá không?!
Tất cả các qui định trên đây thật đơn
giản, dễ hiểu, dễ thực hiện và đã thực hiện ở nước ta từ trước
năm 1960. Nhưng không hiểu vì sao, những nhà cải cách tư pháp hiện nay
vẫn chưa “ngộ”. Những điều này còn chưa được chấp nhận trong cải
cách tư pháp, sửa đổi luật tố tụng hình sự, thì quyền được im lặng
của người bị nghi có tội khó có thể được Bộ Công an và Quốc hội
chấp thuận. Bao giờ nguyên tắc “sót còn hơn sai”, “suy đoán vô tội” sẽ
được tôn trọng, từ khâu khởi tố, bắt tạm giam, điều tra xét hỏi, xử
án, tuyên án, giam giữ phạm nhân???.
Bao giờ có sự tranh luận bình đẳng giữa
công tố viên buộc tội và luật sư bào chữa gỡ tội? Và bao giờ kết
quả tranh luận này là cơ sở quan trọng nhất để tòa án tuyên án???
Bao giờ cho đến ngày xưa, cái thời tôi bị làm “vật cá độ” ấy?? Khó
lắm thay. Tại cái nước mình nó thế.
Nhận xét