3975. Xuân ẤT MÙI lạm bàn về hòa giải dân tộc
Xuân ẤT MÙI lạm bàn về hòa giải dân tộc
Tác giả: Tô Văn Trường

KD: Ts Tô
Văn Trường vừa gửi mình bài viết này. Xuân Ất Mùi liệu có những chuyển biến
tích cực gì không trong một vấn đề không còn mới - hòa giải dân tộc. Để lòng
người hai phía không còn những đau, những hận, những giận, những buồn thương…
Tất cả trông chờ vào những nỗ lực thật sự và lòng thành tâm của con người.
Cảm ơn Ts Tô Văn Trường.
————
PNTB: "Bát máu đào hơn ao nước lã"- Hòa giải dân tộc phải dựa vào tinh thần ấy. Nếu quá nặng nề về "ý thức giai cấp" mà nhẹ về "ý thức dân tộc" thì vết thương quá khứ không bao giờ lành. Và, đó chính là "gót chân asin" cho những kẻ tham vọng xâm lược đất nước mình có cơ hội, chúng chỉ mong vậy...
TVT: Vấn đề “hòa giải dân tộc” là một trong những nền tảng cơ bản của nước Việt để xây dựng một quốc gia phát triển hùng mạnh, có đầy đủ khả năng đối đầu với các thách thức nhiều mặt của thời đại.
Tổ quốc, non sông một
chữ “HÒA”
Chiến tranh, khói lửa đã lùi xa
Chung tay hợp sức lo dựng nướcDẹp bỏ hận thù mở hướng xa
Năm hết, tết đến
trong mâm ngũ quả ngày tết, trên ban thờ tổ tiên đầy ắp trái cây màu xanh, màu
vàng mươn mướt thì sẵn nhưng vào dịp tết xưa hơi hiếm trái cây màu đỏ nên có
người còn mạnh tay ghim vào, điểm xuyết cả mấy trái ớt đỏ au, roi rói cho rộn
ràng, đa sắc. Trái ớt là cái tên dân giã để chỉ cái trái cay xé lưỡi, còn tên
chữ nghĩa của nó là “phản biện” đấy, cay nhưng không thể thiếu nó trong các mâm
cơm, nhất là ngày tết.
Trong tiểu thuyết “Dòng đời” cách đây 10 năm, nhà nghiên cứu Nguyễn Trung (nguyên trợ lý của Thủ tướng Võ Văn Kiệt) đã nêu ra nhiệm vụ của cả nước ta về hòa giải dân tộc, cốt truyện cũng nói lên tinh thần này, phần nào làm rõ trong kháng chiến chống Mỹ còn có một cuộc nội chiến ác liệt. Truyện nêu rõ việc xé đôi đất nước và xé lòng mỗi người dân Việt ta. Đây là lần đầu tiên trong một tiểu thuyết ở nước ta dưới thời nay dám nêu lên vấn đề nội chiến, phúc đức bẩy mươi đời là truyện dầy quá (4 tập, khoảng 1500 trang) nên thoát được kiểm duyệt.
Trong tiểu thuyết “Dòng đời” cách đây 10 năm, nhà nghiên cứu Nguyễn Trung (nguyên trợ lý của Thủ tướng Võ Văn Kiệt) đã nêu ra nhiệm vụ của cả nước ta về hòa giải dân tộc, cốt truyện cũng nói lên tinh thần này, phần nào làm rõ trong kháng chiến chống Mỹ còn có một cuộc nội chiến ác liệt. Truyện nêu rõ việc xé đôi đất nước và xé lòng mỗi người dân Việt ta. Đây là lần đầu tiên trong một tiểu thuyết ở nước ta dưới thời nay dám nêu lên vấn đề nội chiến, phúc đức bẩy mươi đời là truyện dầy quá (4 tập, khoảng 1500 trang) nên thoát được kiểm duyệt.
Tôi hiểu và chia sẻ
với tác giả Nguyễn Trung về hòa giải dân tộc trong tâm khảm của ông lớn quá mức
chịu đựng, đến nỗi gần như phát ốm mỗi lần đụng chạm đến vấn đề này. Bởi vậy,
ông vừa chia sẻ, vừa thương cảm chân thành khuyên tôi, đừng mất công sức, thời
gian đụng đến đề tài “Hòa giải dân tộc” vì nó vô vọng trong thể chế hiện nay.
Bản chất của hòa giải
là giải pháp bảo đảm quyền lợi vật chất và tinh thần của mỗi bên mâu thuẫn dựa
trên sự tôn trọng những chuẩn mực pháp lý, đạo đức, văn hóa xã hội đã được thừa
nhận hay quy định để giải quyết mâu thuẫn. Để thực hiện được hòa giải thực sự
đối với những sự việc đã xảy ra và hậu quả không mong muốn đang tồn tại cần
phải nhìn thẳng vào sự thật để đánh giá, hàn gắn các vết thương, thấy được các
lỗi lầm, sai sót, đó là xét đúng sai của việc đã rồi, để không lặp lại quá khứ.
Trong thực tế đã có
nhiều người và tổ chức bàn về hòa giải, hòa hợp, trong khi chủ quyền đất nước
vẫn còn đang bị xâm lấn, nền kinh tế đất nước vẫn nghèo khó và đạo đức xã hội
xuống cấp nghiêm trọng bởi nạn tham nhũng… mà chỉ bàn hòa giải bằng những từ
kêu gọi hoa mỹ về hòa hợp dân tộc, đó chỉ là khẩu hiệu tuyên truyền rỗng tuếch
sáo mòn, hay hòa giải chỉ bảo đảm lợi ích tức thời cho một nhóm nhỏ (nhóm lợi
ích) mà làm tổn hại đến lợi ích dân tộc và tương lai thì đó là sự vô trách
nhiệm, còn tệ hại hơn câm lặng nhiều lần.
Nói theo ngôn ngữ
trong toán học, hòa giải là loại bài toán không dễ giải (loại NP-hard). Chừng
nào người dân còn chưa được hưởng quyền tự do dân chủ thực sự, chừng nào 61
người ký tên vào bản thư ngỏ, chắc chắn còn là nguyện vọng của nhiều trí thức
đảng viên có tâm huyết với đất nước, còn được liệt vào danh sách đen, chừng nào
xã hội nhiều mặt còn không được tử tế như xưa và chừng nào ngay trong nội bộ
phe thắng cuộc cũng còn chưa hoà giải được, thì đừng nói chi đến hoà giải với
bên thua cuộc.
Nhà triết học giáo
dục Mỹ John Dewey từng nói : “Một gam kinh nghiệm tốt hơn một tấn lý thuyết”.
Với lịch sử chiến tranh triền miên, sự đô hộ của nhiều chế độ đế quốc phong
kiến và 40 năm thống nhất đất nước của dân tộc ta thì cần phải thêm vào đó sự trải
nghiệm mới thấy hết được sự cần thiết của vấn đề hòa giải dân tộc. Theo tôi
hiểu kinh nghiệm hay trải nghiệm, hai từ này nhiều người vẫn lẫn lộn là một!
Bởi vì “Kinh nghiệm”, có thể lấy (vay mượn) từ người khác, làm sao sánh được
với “trải nghiệm” – trả giá bằng chính cuộc đời mình, của cả một thế hệ !
Một vài bài học lịch sử về hòa giải, hòa hợp
Lịch sử nhân loại cũng như ở nước ta lưu truyền nhiều lắm những sự kiện –
bài học lịch sử về hòa giải, hòa hợp đã đem lại động lực bảo đảm sự bình yên
phát triển của xã hội, và cũng không ít sự kiện không tận dụng được sức mạnh
của hòa giải đã gây ra bao đau khổ, tàn phá ở nhiều nước và cả nhân loại.
Kể về câu chuyện thời
nhà Trần sử xanh còn ghi lại: Trần Quốc Tuấn và Trần Quang Khải đã có mối hiềm
khích từ rất lâu, do mâu thuẫn chi tộc (dòng chính, dòng thứ) và bất hòa cá
nhân, ai ai cũng đều biết, kể cả binh tướng. Giữa lúc binh hùng tướng mạnh của
đế quốc Nguyên Mông đang lăm le ào tới như thác đổ chỉ trong ngày một, ngày hai. Quốc gia lâm nguy, ngàn cân treo trên sợi tóc, trong / ngoài bê bối, rối như
canh hẹ! .
Một hôm, Trần Quốc
Tuấn từ Vạn Kiếp tới, Trần Quang Khải xuống thuyền chơi suốt ngày mới trở về.
Trần Quang Khải vốn sợ tắm gội, Trần Quốc Tuấn thì thích tắm thơm, từng đùa bảo
Trần Quang Khải: “Mình mẩy cáu bẩn, xin tắm giùm”, rồi cởi áo Trần Quang Khải
ra, dùng nước thơm tắm cho ông và nói: “Hôm nay được tắm cho Thượng tướng”.
Trần Quang Khải cũng nói: “Hôm nay được Quốc công tắm rửa cho”. (Đại Việt Sử
ký Toàn thư).
Cuộc tắm gội lịch sử
đó diễn ra ở ngay mũi thuyền, ba quân tướng sỹ đều thấy, như trút được gánh
nặng, toàn quân đều nức lòng đánh giặc giữ nước. Ôi, những gáo nước thơm
thiêng liêng xối xuống đã làm trôi tuột đi những mối hận riêng tư, những vết mờ
không đáng có trong lịch sử, giúp cho xã tắc có một sức mạnh quật cường hơn cả
những ngọn sóng thần, nhấn chìm tan tác lũ sói lang xâm lược xuống đáy sông!
Những cái cọc vô tri vô giác trên sông Bạch Đằng vẫn còn đó, lập lờ dưới dòng
linh giang như nhắc nhở những ai còn nghĩ tới nợ nước thì hãy khép lại thù nhà
nhỏ nhoi cho khỏi mang lỗi với tổ tông!
Sau khi đánh bại quân
Nguyên, các quan dâng lên vua Trần Nhân Tông tài liệu về những người từng đầu
hàng giặc, xin xử lý, thì nhờ có Vua anh minh, nhìn xa, trông rộng, chủ trương
hòa giải, nên không đọc mà ra lệnh đốt hết tài liệu để yên lòng người.
Cũng chưa lâu lắm,
mới chỉ ở thời Hậu Lê trong hoàn cảnh đất nước đã đánh đuổi được ngoại xâm, chỉ
vì mâu thuẫn lợi ích của các Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn đã gây ra cuộc chiến
phân tranh kéo dài hàng trăm năm. Nếu hòa giải và hòa hợp được sử dụng, chắc
chắn lịch sử nước nhà đã có được một cơ hội phát triển tốt đẹp hơn nhiều.
Thập niên 30, Hoàng
đế Nhật Bản chinh phục Mãn Châu và thành lập Mãn Châu Quốc. Hai vị lãnh đạo
trong Đảng cộng sản Nhật, đã chủ động từ bỏ lý tưởng của mình, để ủng hộ Hoàng
Đế Nhật. Họ cho rằng phải làm như thế vì lòng yêu thương những người thân trong
gia đình, ý thức coi mình là người của nhân dân, và thay đổi lại ý thức hệ vì
lợi ích của dân tộc. Từ đó, phong trào Đảng cộng sản Nhật Bản suy yếu hẳn đi
như ngày nay chúng ta đều biết.
Sau Cách mạng tháng
tám, Hồ Chí Minh sử dụng các nhà trí thức và giới tư sản của chế độ thuộc địa,
cả vua Bảo Đại, nhờ thế có nguồn lực nhân tài và tài chính mà xây dựng chính
quyền và kháng chiến. Rõ ràng mục tiêu của Hồ Chí Minh là đoàn kết toàn dân tộc
vì độc lập tự do của tổ quốc.
Sau 1954, mặc dù Hồ
Chí Minh còn sống, nhưng bị chi phối bởi hai phe, nhất là Trung Quốc (ai thắng
ai, cải cách ruộng đất, cải tạo tư sản vv…) nên tư tưởng dân tộc bị phai nhạt
dần, còn đấu tranh giai cấp đã chen vào, nên việc hòa giải giữa người kháng
chiến với nguời vùng địch chiếm gặp trở ngại, mang màu sắc phân biệt, kỳ thị
kéo dài.
Lạm bàn về hòa giải
Bản chất sự xáo trộn, xâm hại trong lịch sử cho rằng nhóm người này, sắc
tộc này hơn các sắc tộc khác, tự cho mình quyền xâm hại. Đấy là nguồn gốc của
chiến tranh, xung đột, mâu thuẫn, quan điểm chính trị lỗi thời cần xóa bỏ.
Ngày nay, không quốc gia nào, dân tộc nào được phép coi mình là thượng đẳng,
không đảng phái chính trị nào tự cho mình là duy nhất, là đạo đức là văn minh.
Thừa nhận vô điều kiện sự bình đẳng, sự tồn tại của các quốc gia sắc tộc, các
đảng phái khác là nhận thức chính trị hiện đại, phù hợp với chuẩn mực con người
văn minh trong thế giới ngày nay. Đấy là tín hiệu tốt đẹp đầu tiên và nguyên
tắc của sự hòa giải.
Người dân vẫn còn nhớ năm 1975, sau ngày thống nhất đất nước, hào khí
chiến thắng của cả dân tộc cùng với cơ sở vật chất, cơ chế sản xuất theo xu thế
thị trường ở miền Nam đã đưa tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 1976 đạt mức kỷ lục
là 16,8%. Thời kỳ đó, giá như Việt Nam chúng ta nhớ đến vị danh tướng
Napoleon của Pháp, người không biết sợ là gì, khi được hỏi :”Điều gì làm ngài
sợ nhất?”. Ông nói :”Sợ nhất là sau khi chiến thắng làm ru ngủ con người, quên
đi những thiếu sót, khuyết điểm, không cẩn trọng để bước vào cuộc chiến mới”.
Tiếc thay lịch sử lại không có hai từ “giá như”!
Miền Nam
đã trải qua sóng gió của hợp tác hoá và cải tạo kinh tế tư bản, tư doanh. Các
chương trình đưa dân thành thị đi phát triển các vùng kinh tế mới, cùng với một
số biện pháp sai lầm trong quản lý kinh tế đã tách người lao động và quản lý ra
khỏi tư liệu sản xuất, thực sự chuyển nền kinh tế thị trường sang kinh tế chỉ
huy bao cấp, đã triệt tiêu mọi động lực khuyến khích người lao động. Riêng năm
1980, nước ta phải nhập lương thực đến 1,6 triệu tấn. Kết quả phần lớn các mục
tiêu kinh tế của kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980) do Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IV của Đảng đề ra đều không đạt được. Mức tăng trưởng kinh tế
tụt xuống chỉ còn 2,9% vào năm 1980 so với chỉ tiêu là 13%. Xuất khẩu chỉ bằng
20-25% nhập khẩu. Năm 1984, khoảng 75% dân số sống dưới mức nghèo đói. Lạm phát
lên đến mức đỉnh điểm năm 1986 là 774,7%.
Khủng hoảng kinh tế và chính sách cải tạo làm lòng dân bất an, bế tắc, nhiều người dân ở miền Nam khác ý thức hệ, cùng quẫn, đã phải tìm mọi cách đi vượt biên, bất chấp nguy hiểm đến tính mạng ngoài biển khơi, do thiên tai, cướp biển. Cha mất con, vợ mất chồng, tang tóc đau thương của “thuyền nhân” là bài học đắt giá để lại hậu quả đau đớn, rất tệ hại. Nên nhớ rằng vết thương lớn trong tâm thức khó phai hơn nhiều so với nỗi đau mất mát trong chiến tranh.
Khủng hoảng kinh tế và chính sách cải tạo làm lòng dân bất an, bế tắc, nhiều người dân ở miền Nam khác ý thức hệ, cùng quẫn, đã phải tìm mọi cách đi vượt biên, bất chấp nguy hiểm đến tính mạng ngoài biển khơi, do thiên tai, cướp biển. Cha mất con, vợ mất chồng, tang tóc đau thương của “thuyền nhân” là bài học đắt giá để lại hậu quả đau đớn, rất tệ hại. Nên nhớ rằng vết thương lớn trong tâm thức khó phai hơn nhiều so với nỗi đau mất mát trong chiến tranh.
Ngày nay, thế hệ người Việt chịu di chứng nặng nề của chiến tranh, có lớp
con cháu thành đạt ở xứ người. Họ đã vượt qua mọi khó khăn trở ngại, cuộc sống
tôi luyện họ, học tập và lao động trưởng thành khiến người dân các nước sở tại
khâm phục, ngưỡng mộ sự nhẫn nhục, cần cù sáng tạo, vươn lên khẳng định vai trò
vị thế của mình trong xã hội văn mình. Hay nói cách khác, bằng tình yêu Tổ quốc
họ đã tự hòa giải chính bản thân mình.
Thế hệ người Việt ở
xứ người, đáng trân trọng biết bao khi vẫn duy trì vốn văn hóa Việt, vẫn hướng
con cháu về quê hương đất nước. Họ lao động miệt mài không chỉ vì mưu sinh bản
thân mà còn nghĩ đến những người thân ở quê hương xứ sở, những bà con ruột rà
còn chịu nhiều khó khăn thiệt thòi về kinh tế, giáo dục, y tế lạc hậu vv… Chỉ
tính riêng từ năm 1991 đến nay, nguồn tiền kiều hối gửi về Việt Nam vượt 90 tỉ
đô la Mỹ, riêng năm 2014 ước tính khoảng 12 tỉ đô la là phao cứu sinh cho nhiều
doanh nghiệp, là nguồn tài chính quan trọng cho nhiều gia đình để góp phần ổn
định và phát triển kinh tế của đất nước.
Muốn hòa giải với những người gọi là “thua cuộc” ở xứ người, trước hết
phải có tâm thức thực sự văn minh đối với ngay cả những người “thắng cuộc” ở
trong nước, kể cả với những người thân của kiều bào.
Trong cuộc chiến vừa qua, ở một góc nhìn khác, tất cả chúng ta đều là kẻ
“thua cuộc”. Chúng ta đã bị các cường quốc lợi dụng đẩy vào cuộc chiến tranh
bằng xương, bằng máu và bằng thịt của người Việt để thực hiện các ý đồ tranh
dành quyền lực và ảnh hưởng. Dân tộc bị chia rẽ nên mới cần hòa giải.
Nước Pháp đô hộ Việt Nam
cả thế kỷ, người Mỹ đổ bom đạn, gây bao đau thương chết chóc trên cả 2 miền
nước ta. Mọi chính sách hòa giải đến từ nhà nước nhưng vai trò đi tiên phong
rất quan trọng từ các cựu binh Pháp và Mỹ hối lỗi thực sự, gặp sự tha thứ chân
thành của người dân Việt Nam .
Ngẫm suy, nỗ lực của hai nhà nước Việt -Trung cùng lời lẽ hoa mỹ, tốt đẹp
lớn gấp nhiều lần đã làm với Mỹ nhưng thử hỏi người dân Việt Nam hiện nay
“dị ứng” với Trung Quốc hay Mỹ? Cần nhớ rằng, không nhà nước nào có thể thay
thế được suy nghĩ của người dân Việt Nam trong lĩnh vực hòa giải.
Chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979 đến này đã hơn 30 năm, nhà nước
Trung Quốc và Việt Nam đã tốn bao công sức, hành động, lời lẽ tuyên truyền tình
hữu nghị 4 tốt và 16 chữ vàng để hòa giải nhưng đến nay kinh tế càng lệ thuộc
vào Trung Quốc, đảo biển vẫn bị xâm chiếm gặm nhấm từng ngày. Sự xâm lấn của
Trung Quốc thể hiện qua từng bữa ăn, quần áo mặc của người dân, bản tin thời
sự, lễ nghi nhà nước vv…
Kinh nghiệm lịch sử cho thấy Việt Nam muốn hòa bình, hòa giải với Trung
Quốc nhưng để có hòa giải đó thì trước hết, Trung Quốc phải từ bỏ chính sách bá
quyền, bành trướng đối với Việt Nam, nói một đằng làm một nẻo. Ai cướp đoạt,
lấn chiếm Mục Nam Quan, Thác Bản Giốc và vùng rộng lớn ở biên giới phía Bắc của
Việt Nam ?
Ai đã cướp Hoàng Sa, Gạc Ma và giết hại hàng vạn chiến sỹ đồng bào ta trong
chiến tranh biên giới 1979 mà ngày nay vẫn đang tiếp tục lấn chiếm xây sân bay
trên đảo Chữ Thập ở Trường Sa của ta ?
Hòa giải bằng hành động thực tế và tôn trọng nguyên tắc bình đẳng
Ai cũng kêu là mấy chục năm rồi sao chưa hòa giải được. Mặc dù đường lối
thì luôn tuyên bố hòa giải, nhưng thực tế thì còn chưa làm được nhiều. Muốn hòa
giải thì phải biểu hiện ra thành những hành động thực tế. Người dân chỉ cần
nhìn vào đường lối, chỉ thị của Đảng, Chính phủ để đánh giá thiện chí của nhà
cầm quyền.
Đúng là không thể nói hòa giải khi thiếu một môi trường, một thể chế
chính trị – xã hội dân chủ, tôn trọng sự khác biệt và đa dạng để từ đó mà tạo
ra nguồn sinh lực bền bỉ và dồi dào. Khi chưa có một thể chế như vậy thì mọi sự
hòa giải dân tộc đều chỉ là gượng ép, khiên cưỡng và làm rạn nứt thêm khối đoàn
kết dân tộc.
Nhớ lại, đầu thập niên 90, từ Thái Lan tôi đi Mỹ tham dự hội thảo, gặp
đoàn đại biểu từ trong nước do GSTS Trần An Phong làm trưởng đoàn. Trong lúc
hội thảo, bên ngoài khá đông kiều bào trương biểu ngữ hô to “đả đảo cộng sản”!
Giờ giải lao, tôi ra gặp đoàn biểu tình trò chuyện, trao đổi về một số vấn đề
hai bên cùng quan tâm. Với thái độ thân thiện, chân tình, đối thoại, tôi nhận
thấy ở họ nhất là thế hệ trẻ rất quan tâm đến vận nước.
Tuy nhiên, một số người đã phải bỏ nước ra đi vì chống cộng sản, không hề
nguôi ngoai hận thù này, và coi chừng nào còn chế độ đã đánh bại họ chừng đó
không thể có hòa giải. Ngày nay, vẫn còn nhiều người coi Bùi Tín, Cù Huy Hà Vũ
chỉ là những người nửa đường đứt gánh và quay sang chống Cộng, người như Điếu
Cày, thì họ cố quàng vào cổ ông cái cờ vàng. Một cách nghĩ cực đoan như vậy
thật khó dẫn tới đoàn kết dân tộc được!
Những người vẫn coi 30 tháng 4 năm 1975 là ngày giải phóng miền Nam, vẫn
coi những người tỏ thái độ chống Trung Quốc bành trướng xâm lược dưới nhiều
hình thức, trong đó có biểu tình không bạo động, vẫn coi việc bắt giam những
người phản đối những hành động mà họ coi là không dân chủ, không hợp hiến, là
đúng, vẫn gọi những người đã phục vụ trong chính quyền Nam Việt Nam là Ngụy,
cách nghĩ của họ không hề khác trước khi Trung Quốc nổ súng đánh ta, thì làm
sao có thể dẫn tới đoàn kết dân tộc được!?
Nếu có được đoàn kết dân tộc, những người Việt Nam một thời khác biệt về
chính kiến sẽ góp sức mình cho một Tổ quốc Việt Nam cường thịnh, người Việt Nam
ở nước ngoài sẽ là disaspora như người Do thái. Làm thế nào để chúng ta có được
sự đồng thuận đó? Quả bóng đang ở trong chân lãnh đạo Việt Nam .
Cụ thể như những chương trình truyền hình. Cần đưa vào đó thân phận, cuộc
sống không chỉ của bên thắng cuộc, mà cả bên kia nữa. Họ đã có thân phận như
thế nào sau mấy chục năm hòa giải. Hòa giải ngay trong cách nói nữa. Trong các
chương trình truyền hình, những nhân vật lên nói vẫn có cách nói còn thể hiện
sự phân biệt. Trong những chương trình phim, văn nghệ, những nhân vật trong đó
vẫn thể hiện sự phân biệt, và cả sự kỳ thị. Đó mới chỉ là một ví dụ nhỏ thôi.
Còn nhiều điều diễn ra trong cuộc sống. Nếu để cho những người “thua” cuộc được
lên tiếng, được biểu lộ quan điểm thì sẽ đẩy nhanh sự hòa giải bởi vì sẽ khó có
thể hòa giải khi mà hai bên không giãi bày, không đối thoại, không thể hiện hết
suy nghĩ của mình, nếu bên kia không lắng nghe, không thấu hiểu.
Vấn đề hòa giải dân tộc, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã rất sâu sắc và nhân
văn khi khơi dậy vấn đề "hòa giải dân tộc” bằng cách đề nghị thay thế hai từ
giải phóng bằng hai từ thống nhất cho ngày 30 tháng 4. Ông là chính khách đi
tiên phong trong vấn đề này với câu nói nổi tiếng “Ngày 30 tháng tư có hàng
triệu người vui nhưng cũng có hàng triệu người buồn”. Ai cũng hiểu rằng nếu
không thống nhất được lòng dân thì dân tộc Việt sẽ không bao giờ ngóc đầu lên
được.
Hòa giải là vấn đề còn rất nan giải. Có chuyên gia, trí thức Việt kiều
danh tiếng, luôn quan tâm đến vận nước, nói thẳng rất đáng suy ngẫm nguyên văn
như sau: “Tôi cho rằng sẽ không bao giờ có hòa giải. Những người cộng sản nói
hòa giải thực chất là kêu gọi qui hàng, trước đây qui hàng thì được bỏ tù không
bị giết. Còn bây giờ qui hàng là hợp tác những gì mà họ cho hợp tác. Sau nội
chiến về chính sách kỳ thị ở Nam Phi, Tổng thống Mandela đã cho điều tra tội ác
nhưng không để xét xử, và không cho phép xét xử người phạm tội trước đó, mà chỉ
làm rõ trắng đen. Sau nội chiến ở Mỹ, Tổng thống Lincoln tuyên bố và ra luật cấm trả thù, mọi
người đều được đối xử ngang nhau. Ở Việt Nam thì chính sách trả thù là rõ
ràng. Và cho đến bây giờ vẫn chỉ với 1 đảng, dựa vào cái gọi là “đấu tranh giai
cấp” nhằm loại trừ dựa vào lý lịch thì dù ông Võ Văn Kiệt có tốt bụng cũng
không thể có hòa giải. Họ chỉ tha chết, tha tù, chứ không thể làm người bình
thường.”
Ngẫm suy, muốn cho người khác hiểu mình thì cách tốt nhất vẫn là hành
động. Nói sáo rỗng và lý thuyết suông sẽ chẳng thuyết phục được ai. Cải cách
thể chế và thực hiện dân chủ vẫn là con đường tốt nhất để dẫn đến ”hòa giải
dân tộc”. Ngạn ngữ có câu ”một gam thực tế có giá trị hơn một tấn lý thuyết” .
Thay
cho lời kết
Khi xã hội còn tồn tại hay nảy sinh mâu thuẫn, hòa giải luôn là giải pháp
khắc phục ít bị tổn thương nhất. Con đường đi đến hòa giải còn rất gian nan
nhưng là cần thiết và bức xúc, cần có thiện chí của cả hai bên nhưng chủ yếu
quả bóng đang ở trong chân lãnh đạo Việt Nam và nhìn rộng hơn, đấy còn là vấn
đề được đặt ra ở quy mô thế giới chứ không chỉ trong nội bộ nước ta.
Hòa giải không phải là tự xưng tụng, nhắc đến chiến thắng của mình một
cách cao ngạo. Hòa giải là vấn đề tự thân và tình cảm, tâm thế thì phải chân
thành, khiêm nhường. Bản chất của hòa giải hiện nay không còn là ý thức hệ,
không còn là chiến tranh thắng thua mà bản chất vướng nhất của sự hòa giải nằm
chính trong xã hội chúng ta đó là sự yếu kém, tụt hậu về kinh tế xã hội so với
khu vực. Quyền và vai trò của người dân đối với nhà nước và xã hội vẫn bị giả
tạo. Nhu cầu cơ bản, trong xã hội của người dân vẫn bị coi thường, xem nhẹ. Dân
Việt vốn rất xứng với cái danh xưng “ngàn năm văn hiến”, vậy mà giờ đây suy
thoái đủ đường – từ lời ăn tiếng nói cho tới cách hành xử. Về bản chất, tất cả những
vấn đề bất cập nói trên đã ngăn trở sự hòa giải.
Chỉ có hành động thực sự và tôn trọng sự thật mới mong cứu vãn được tình
thế và lấy lại được lòng tin. Đừng u mê, lú lẫn trong đám hỏa mù của sự ích kỷ
và lừa gạt của các thế lực ngoại bang. Hãy sáng suốt hành động vì chính mình và
dân tộc mình! Vấn đề “hòa giải dân tộc” là một trong những nền tảng cơ bản của
nước Việt để xây dựng một quốc gia phát triển hùng mạnh, có đầy đủ khả năng đối
đầu với các thách thức nhiều mặt của thời đại.
Nguồn: Kim Dung - Kỳ Duyên
Nhận xét