3526. Đôi lời về sự tụt hậu của người Việt
Đôi lời về sự tụt hậu của người Việt
Còm sỹ TamHmong/ Blog Hiệu Minh
Thấy
nhiều phản hồi về nhân cách của người Việt trong bài viết của tác giả Nguyễn
Quang Thiều và đọc comment của chị TM (Gordon Thúy), tôi, còm sỹ TamHmong, muốn
có đôi lời.
Trong
comment, chị TM viết “Khi rời VN ra nước ngoài sinh sống tôi không hề mang theo
hành trang nhân cách cồng kềnh nào cả, không tự tôn cũng không tự ti, và không
hề trải nghiệm bất ổn nhân cách.
Sang xứ
người lập nghiệp, tôi chỉ biết nhớ lấy lời cha mẹ và thầy cô dậy dỗ lúc còn bé:
sống lương thiện, làm việc cần mẫn, chịu khó học hỏi, ráng vươn lên bằng nỗ lực
cá nhân, noi gương tốt, tránh không làm điều gì xấu xa có thể tổn hại đến thanh
danh cá nhân và dân tộc”.
Tâm sự
của người Việt ở Nga
Trước
kia tôi cũng nghĩ và hành động đơn giản như chị TM. Tuy nhiên, trong khoảng
mười lăm năm gần đây, tôi bắt đầu suy nghĩ về khả năng hóa rồng của VN như Hàn
Quốc. Cách đây vài năm, tôi dần nhận ra, đó là mong ước hão huyền, rồi VN sẽ
thua Campuchia, quốc gia láng giềng mà người Việt thường nhìn từ chiếu trên.
Sống và
làm việc ở Nga một thời gian khá dài, tôi cũng nhìn lại diễn biến trong thái độ
của người Nga đối với cộng đồng người Việt ở xứ bạch dương, một nơi mà tới
99,99% dân miền Bắc VN đến làm ăn. Tôi cũng thử quan sát về sự biến đổi của
người Việt đối với nước Nga, để hiểu thêm về con người Việt. Dường như diễn
biến đã trải qua đủ các sắc thái và đến từ cả hai phía.
Cho đến
tận những năm đầu thập kỷ 1990, người Việt vẫn được người Nga khá tôn trọng và
cảm tình, ít nhất là so với người Trung Quốc, vì người Việt có thu nhập khá cao
so với mặt bằng xã hội Nga thời đó.
Sau đảo
chính của Elsin (1991), nước Nga đứng trước ngã rẽ của lịch sử, họ lúng túng bước
ra với thế giới, chẳng biết buôn bán hay kinh tế thị trường là gì, bởi 70 năm
bao cấp quan liêu đã làm mòn ý chí của người muốn vươn lên.
Trong
khi đó, người Việt như những con “ếch” có bản năng sinh tồn mạnh nhảy qua chỗ
rẽ nhanh hơn trong khi “trâu ngưạ” Nga đứng thẫn thờ. Ngoài ra, người Việt tính
cách cởi mở, khá phóng khoáng và sống “hiền lành”. Vì thế sự cảm tình là đương
nhiên.
Nhưng
với thời gian, tính cách người Nga trỗi dậy, bề dày lịch sử và văn hóa phong
phú, cộng với nền kinh tế thị trường đã làm quốc gia này thay đổi chóng mặt.
Không thể theo kịp với thời cuộc, người Việt ở đây bị bắn ra khỏi lề của sự
phát triển.
Hiện
nay, có thể nói người Việt ở Nga đang đánh đổi tất cả để kiếm tiền, vất
vả mưu sinh nhưng vì trình độ có hạn, những gì thuộc về láu cá, buôn bán vặt,
không giữ uy tín, nên họ thuộc cộng đồng có thu nhập thấp nhất trong xã hội Nga
và thường kinh doanh các lĩnh vực mà các cộng đồng khác ít chịu làm.
Ngày
xưa người Việt từng thuê người Nga đứng bán hàng vặt từ áo váy, son rởm, đến
cửu vạn máy tính, nhưng nay chuyện đó đã thành dĩ vãng.
Khả
năng và ý muốn hội nhập cũng là thấp nhất trong các cộng đồng nhập cư. Các bạn
trẻ VN khá hòa đồng với học sinh phổ thông bản xứ, nhưng khi lên đại học thì co
cụm lại và hầu như chỉ giao lưu trong cộng đồng VN, kể cá các bạn sinh trưởng ở
Nga và có quốc tịch Nga.
Số bạn
trẻ VN tốt nghiệp đại học đủ tự tin để đi xin việc ở các Cty thuần Nga có pháp
nhân Nga và người Nga làm chủ, có thể đếm trên đầu ngón tay.
Nhìn
chung, cộng đồng người Việt ở Nga đã tụt hậu so với các cộng dồng dân tộc khác
và người Nga một cách ghê gớm, ra đường rộng “éch” không thể đua với “trâu
ngựa” đươc.
Hơn
nữa, trong con mắt của phần đông người bản xứ, người Việt cũng không hề “hiền
lành’’, gây gổ, trộm cắp, đánh nhau và tỏ ra ít thân thiện hơn xưa.
Thật
đáng buồn, trong các phẩm chất truyền thống của người Việt lẽ ra nhiều điều tốt
đẹp, thì người bản xứ chỉ thấy cộng đồng này có phẩm chất chịu đựng nhẫn nhục
vô biên.
Thật dễ
hiểu, khi người bản xứ đã nhìn như vậy thì sự phân biệt đối xử là đương nhiên.
Điều đáng buồn, phần đông người Việt không hiểu tại sao lại bị người Nga đối xử
như vậy.
Thái độ
của người Việt ở Nga đối với người Nga trong hơn hai chục năm qua cũng qua
nhiều cung bậc. Đi từ con mắt “ngạo mạn’’ của “ếch Việt tinh khôn” nhìn “trâu
ngựa Nga đờ đẫn” của những năm 90, người Việt lúc đó thường gọi người Nga là
“ngố và heo” vì lừa dễ, đến cái nhìn ganh tỵ, tự ty và cách biệt đối với người
Nga hiện nay.
Lũy tre
làng và văn minh lúa nước
Tóm
lại, theo tôi câu chuyện về sự tụt hậu của người Việt ở Nga có lẽ cũng tương tự
câu chuyện của VN so với khu vực và thế giới. Nguyên nhân sâu xa theo tôi không
hoàn toàn là vấn đề nhân cách như anh NQT nhận định, mà có thể từ sự tụt hậu về
tư duy.
Nhìn
sâu vào lịch sử, văn hóa VN có xuất xứ từ đồng bằng sông Hồng, hay còn gọi là
văn minh lúa nước, nơi có điều kiện thiên nhiên khắc nghiêt, nóng ẩm, lũ lụt
thường trực, đất đai không mấy phì nhiêu. Kinh tế nông nghiệp, bờ thửa tiểu
nông manh mún, đủ ăn là quí. Hệ thống làng xã với lũy tre là biên giới giúp
không bị người Hán đồng hóa trong 1000 năm Bắc thuộc, nhưng tư duy ấy không
thuận lợi cho phát triển thương mại và thành thị thời hiện đại.
Người
Nga có bề dày về lịch sử, văn hóa, kiến trúc cả thế giới ngưỡng một. Kể ra còn
nhiều quốc gia khác nữa, khi đựợc giải phóng về trí tuệ, bỗng họ thay đổi lạ
thường.
![]() |
Saint Peter-burg – Truyền thống văn hóa Nga có chiều sâu. Ảnh: Internet |
Cho đến
đầu thế kỷ 20, Thăng Long – Hà Nội chỉ có vài ba chục ngàn dân. Để so sánh thời
nhà Đường bên TQ vào thế kỷ 8-9, kinh đô Trường An đã có tới hai triệu dân.
Nghĩa là xã hội VN truyền thống chưa có môi trường thuận lợi cho văn học, âm
nhạc, hội hoa, kiến trúc và nghệ thuật sân khấu đỉnh cao. Cũng chẵng có tầng
lớp thương lưu theo đúng nghĩa, thì làm sao có chỗ cho sự phát triển tư tưởng
triết học.
Một
ngàn năm Bắc thuộc đã đẫn đến sự ảnh hưởng tư tưởng Trung Hoa, cộng với môi
trường văn minh lúa nước đã tạo nên một VN có tư duy CHẮP VÁ, NỬA VỜI, HỜI HỢT,
DỂ THỎA HIỆP DUNG HÒA, và có phần DUY NGÃ (chủ quan, cảm tính, lấy mình làm
chuẩn).
Cùng
trong hệ văn hóa Trung Hoa truyền thống, nhưng thành tựu văn hóa truyền thống
VN khó bằng văn hóa truyền thống Nhật Bản và Hàn Quốc.
Kết quả
là văn hóa phi vật thể VN hầu như không có khả năng lan tỏa ra ngoài biên giới
VN. VN cũng rất ít có sản phẩm hoàn hảo có khả năng làm chuẩn mực cho các dân
tộc khác. Người VN cũng ít khi chọn chuẩn cao ngoài biên giới VN để phấn đấu,
thường chí cần hơn “ông hàng xóm cách bờ dậu” là đủ.
Chuyên
môn hóa sản xuất trong xã hội ở múc thấp và xã hội cũng chưa thực sự tôn vinh
ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP, đó là làm nghề gì cũng phải có sản phẩm chất lượng được xã
hội thừa nhận.
Đôi lời
cuối
Hành
trang lịch sử của Việt Nam
cũng có, nhưng nên đau xót mà nhận rằng, cũng chỉ vài thứ có thể đồng hành vào
thế kỷ 21. Thông minh cần cù chưa đủ, mà cần phá cái tư duy lũy tre và ao làng
mới mong bằng người.
Để
không bị tụt hậu, nên theo tư duy luật pháp, kinh tế, theo kiểu phương Tây như
Nhật Bản, Hàn Quốc , Singapore . Họ bỏ xa chúng ta là vì
biết chọn được những tư duy phát triển tinh hoa của nhân loại.
Một
chuyện nhỏ như tôn vinh ĐAO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP là nền tảng của sự đồng thuận và
tin cậy trong xã hội. Nhật Bản là một điển hình về chất lượng mang tính tự hào
dân tộc rất cao.
Những
CHUẨN MỰC PHỔ QUÁT THẾ GIỚI như dân chủ, nhân quyền, tự do báo chí, minh bạch,
luật pháp thượng tôn, cần được áp dụng cho mọi xã hội kể cả VN, để từ đó kéo
theo nền tảng văn hóa, giáo dục thay đổi.
Hy
vọng, mấy chục năm nữa, thế hệ tương lai Việt rong ruổi trên mọi nẻo đường như
TamHmong hôm nay, không phải băn khoăn về sự tụt hậu hay nhân cách của chính
mình.
Chúc
các bác Hang Cua mọi điều tốt lành.
Nhận xét