PNTB: Cũng như mọi người, mình biết đến tên tuổi ông Khái Hưng với tư cách là cây bút chính của nhóm Tự Lực Văn Đoàn nổi tiếng trong lịch sử văn học nước nhà. Nhưng hôm nay mới biết ông được sinh ra ở Cổ Am, Vĩnh Bảo Hải Dương (nay thuộc Hải Phòng), nghĩa là cùng huyện với mình. Và đặc biệt xót xa cho cái chết tức tưởi của ông...
Chuyện bây
giờ mới kể [Kỳ 3]
THÁI DOÃN
HIỂU
Khái
Hưng (1896 - 1947) là một nhà
văn Việt Nam
nổi tiếng. Cùng với Nhất Linh, ông là cây bút chính của Tự Lực Văn
Đoàn.
Khái
Hưng tên thật là Trần Dư, nhưng ông thêm chữ Khánh thành Trần
Khánh Dư để giống vị tướng Trần Khánh Dư đời Trần. Bút danh Khái
Hưng của ông được ghép từ các chữ cái của tên Khánh Dư.
Ông sinh
năm 1896, xuất thân trong một gia đình quan lại ở xã Cổ Am,
huyện Vĩnh Bảo, Hải Dương, nay thuộc Hải Phòng. Một số tài liệu
ghi ông sinh năm 1897.. Thân phụ ông giữ chức Tuần phủ. Cha vợ ông là Lê
Văn Đinh cũng giữ chức Tổng đốc Bắc Ninh. Em ruột ông là nhà văn Trần Tiêu.
Khái Hưng đi
học ở trường Albert Sarraut. Sau khi đỗ tú tài I, vì không muốn
làm công chức, ông về Ninh Giang mở đại lý bán dầu hỏa. Được một thời
gian Khái Hưng lên Hà Nội dạy ở trường Tư thục Thăng Long. Trong
khoảng thời gian 1930 đến 1932, Nhất Linh từ Pháp về
nước và cũng dạy tại trường này. Khái Hưng đã quen Nhất Linh ở đó và họ trở
thành một cặp tác giả nổi tiếng. Tuy Khái Hưng hơn Nhất Linh 9 tuổi nhưng là
người bước vào văn đàn sau nên được gọi Nhị Linh.
Khái Hưng tham
gia Tự Lực Văn Đoàn do Nhất Linh thành lập. Văn đoàn này bắt đầu xuất
hiện công khai từ 1932, và đến đầu năm1933 thì tuyên bố chính thức
thành lập với ba thành viên trụ cột là Nhất Linh, Khái Hưng và Hoàng Đạo
Cùng thời gian
đó, Tự Lực Văn Đoàn ra tờ báo Phong Hóa. Về sau khi Phong
Hóa bị đóng cửa thì tờ Ngày Nay thay thế. Cùng với
báo, Tự Lực Văn Đoàn còn có Nhà xuất bản Đời Nay. Toàn bộ tác phẩm
của Khái Hưng đều do Ngày Nay và Đời Nay công
bố.
Là một trong
những cây bút chính của nhóm, tiểu thuyết đầu tay của Khái Hưng Hồn
bướm mơ tiên (1933) là tiểu thuyết đầu tiên của Tự Lực Văn Đoàn. Tiểu
thuyết cuối cùng của ông là Thanh Đức (1943) và cũng là tiểu
thuyết cuối cùng của nhóm. Khái Hưng cũng viết chung với Nhất Linh hai tiểu
thuyết là Gánh hàng hoa và Đời mưa gió và ra
đời chung tập truyện ngắn Anh phải sống cùng năm1934.
Giống như các
tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn khác, tác phẩm của Khái Hưng thường đề cao tình yêu
tự do, chống lại các lễ giáo phong kiến, ít nhiều mang tính cải cách xã hội.
Khái Hưng cũng có viết một số vở kịch, thường chỉ một hồi, nhưng ít được công
diễn. Trong những năm 1935 đến 1940, Khái Hưng là nhà văn được
nhiều thanh niên thành thị ưa chuộng. Khái Hưng cùng là một dịch giả.
Bài Tình tuyệt vọng ông dịch từ thơ của Félix Arvers rất
nổi tiếng.
Lòng ta
chôn một khối tình
Tình trong
giây phút mà thành thiên thu
Tình tuyệt
vọng, nỗi thảm sầu
Mà người
gieo thảm như hầu không hay
Trong thời
gian Đệ nhị thế chiến, giống như Nhất Linh, Khái Hưng cũng tham gia hoạt
động chính trị. Do tham gia Đảng Đại Việt dân chính thân Nhật nên
Khái Hưng từng bị chính quyền thực dân Pháp bắt giam. Sau ngày Nhật đảo
chính Pháp tháng 3 năm 1945, Khái Hưng được trả tự do. Ông cùng
Hoàng Đạo, Nguyễn Tường Bách cho ra tờ Ngày Nay Kỷ Nguyên Mới.
Sau Cách
mạng tháng Tám, Khái Hưng có viết một loạt bài báo, truyện ngắn, kịch ngắn trên
các báo của Việt Nam Quốc dân Đảng.
Khái Hưng mất
năm 1947. Một số tài liệu cho rằng Khái Hưng bị Việt Minh bắt
giam tại Liên Khu 3 (Lạc Quần, Trực Ninh) rồi đem xử tử hình ở
bến đò Cựa Gà, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Theo ông Nguyễn Tường
Triệu, con nuôi Khái Hưng, tiết lộ Khái Hưng mất tích sau Tết Ðinh Hợi
(22/1/1947)
Hồi còn dạy
học ở thị trấn Vĩnh Bảo, Hải Phòng năm 1973, tôi (TDH) đã nghe chính miệng
những du kích Thái Bình – những kẻ thừa hành bản án. Họ kể rằng họ được lệnh bỏ
rọ trắn xuống sông nhà văn Khái Hưng – chủ soái của Tự lực Văn
đoàn. Kẻ hành quyết kể lại thái độ của Khái Hưng rất bình thản, ung dung
chui vào rọ nứa cho những kẻ chân đất đầu trần buộc giây, gài đá, vần xuống
sông. Ở dưới đáy sông sặc nước, chắc nghẹt thở lắm… Khái Hưng chết chỉ vì ông
là đảng viên đảng Đại Việt !
Thế mà, mới
đây, Vu Gia người miền Trung, sống ở Sài Gòn viết một cuốn sách khảo cứu về
cuộc đời và văn nghiệp Khái Hưng khá hay nhưng lại miêu tả như huyền thoại là
Khái Hưng chết vì rơi vào ổ phục kích y như một nghĩa sĩ, giống như thật. Không
riêng gì Vu Gia, thật buồn cười, sau giải phóng, khi đặt chân đến Sài Gòn, tôi
đã nhảy vào thư viện của trường Quốc gia Sư phạm đọc ngấu nghiến một lèo 6 cuốn
sách, cuốn nào cuốn nấy to như cục gạch viết về việc “Làm thế nào để giết
một tổng thống” là ông Diệm ông Nhu. Cả 6 cuốn kể 6 kiểu chết khác nhau, màu
mè, li kỳ, sửng sốt, hấp dẫn. Ông nào cũng thề thốt với độc giả ông ta mới là
nhân chứng thứ thiệt !
Tác phẩm của
Khái Hưng để lại :
Tiểu thuyết : Hồn
bướm mơ tiên (1933); Đời mưa gió (cùng Nhất Linh, 1933); Nửa
chừng xuân (1934); Gánh hàng hoa (cùng Nhất Linh,
1934); Trống mái (1936); Gia đình (1936); Tiêu
sơn tráng sĩ (1937); Thoát ly (1938); Hạnh (1938); Đẹp (1940);Thanh
Đức (1942).
Tập truyện
ngắn: Anh phải sống (cùng Nhất Linh, 1934); Tiếng suối
reo (1935).; Đợi chờ (1940); Cái ve (1944).
*
Phạm Quỳnh (17 tháng 12 năm 1892 - 6 tháng
9 năm 1945) là một nhà văn hóa, nhà báo, nhà văn và quan đại
thần triều Nguyễn (Việt Nam). Ông là người đi tiên phong
trong việc quảng bá chữ Quốc ngữ và dùng tiếng Việt - thay
vì chữ Nho hay tiếng Pháp - để viết lý luận, nghiên cứu. Ông có
tên hiệu là Thượng Chi, bút danh: Hoa Đường, Hồng Nhân.
Ông được xem
là người chiến đấu bất bạo động nhưng không khoan nhượng cho chủ quyền độc lập,
tự trị của Việt Nam, cho việc khôi phục quyền hành của Triều đình
Huế trên cả ba kỳ (Bắc, Trung, Nam), chống lại sự bảo hộ của
Pháp và kiên trì chủ trương chủ nghĩa quốc gia với thuyết Quân chủ lập
hiến.
Phạm
Quỳnh sinh tại số 17 phố Hàng Trống, Hà Nội; quê quán ở làng Lương
Ngọc (nay thuộc xã Thúc Kháng), phủ Bình Giang, tỉnh Hải Dương, một
làng khoa bảng, có truyền thống hiếu học. Mồ côi mẹ từ 9 tháng tuổi, mồ côi cha
từ khi lên 9 tuổi; Phạm Quỳnh côi cút được bà nội nuôi ăn học.
Phạm Quỳnh học
giỏi, có học bổng, đỗ đầu bằng Thành chung (tốt nghiệp) Trường trung học Bảo hộ
(tức trường Bưởi, còn gọi là trường Thông ngôn).
Năm 1908,
Phạm Quỳnh làm việc ở Trường Viễn Đông Bác cổ tại Hà Nội lúc vừa tuổi
16.
Từ năm 1916,
Ông tham gia viết báo cho một số tờ có uy tín đương thời; làm chủ bút kỳ cựu
của Nam Phong tạp chí từ ngày 1 tháng 7
năm 1917 cho đến năm 1932; tuyên truyền cho tư tưởng “Pháp Việt đề
huề”.
Cũng trong
thời kỳ 1924-1932, ông còn là giảng viên Trường Cao đẳng Hà Nội.
Ngày 2
tháng 5 năm 1919, ông sáng lập và là Tổng Thư ký Hội Khai trí
Tiến Đức, Trần Trọng Kim là Trưởng ban Văn học của Hội; và Hội
trưởng Hội Trí tri Bắc Kỳ.
Năm 1922, với
tư cách đại diện cho Hội Khai trí Tiến Đức, ông đã sang Pháp dự Hội chợ triển
lãm Marseille rồi diễn thuyết cả ở Ban Chính trị và Ban Luân
lý Viện Hàn lâm Pháp về dân tộc giáo dục.
Năm 1924, ông
được mời làm giảng viên Khoa Bác ngữ học, Văn hóa, Ngữ ngôn Hoa Việt, Trường
Cao đẳng Hà Nội, trợ bút báoFrance – Indochine.
Từ năm 1925 –
1928, Phạm Quỳnh là Hội trưởng Hội Trí tri Bắc Kỳ; năm 1926, ông làm ở Hội đồng
Tư vấn Bắc Kỳ và đến năm 1929 được cử vào Hội đồng Kinh tế và Tài chính Đông
Dương.
Năm 1930, Phạm
Quỳnh đề xướng thuyết lập hiến, đòi hỏi người Pháp phải thành lập hiến pháp, để
quy định rõ ràng quyền căn bản của nhân dân Việt Nam,
vua quan Việt Nam
và chính quyền bảo hộ.
Năm 1931, ông
được giao chức Phó Hội trưởng Hội Địa dư Hà Nội. Năm 1932, giữ chức Tổng Thư ký
Ủy ban Cứu trợ xã hội Bắc Kỳ.
Ngày 11 tháng
11 năm 1932, sau khi Bảo Đại lên làm vua thay Khải Định, ông
được triều đình nhà Nguyễn triệu vào Huế tham gia chính quyền Bảo Đại, ông
thôi không làm chủ bút Nam phong Tạp chí nữa. Tại Huế thời gian đầu ông làm
việc tại Ngự tiền Văn phòng, sau đó làm Thượng thư Bộ Học và
cuối cùng giữ chức vụ Thượng thư Bộ Lại (1944-1945).
Ngày 9
tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp. Chính phủ Trần
Trọng Kim được thành lập. Ông về sống ẩn dật ở biệt thự Hoa Đường bên bờ
sông đào Phú Cam, Huế.
Ông
bị Việt Minh bắt giam ngày 23 tháng 8 năm 1945 và
giam ở lao Thừa Phủ, Huế. Người thừa hành lệnh này là Đặng Văn Việt (về sau trờ
thành con hùm xám đường 4 – tiểu tướng Napoleông). Ông bị xử bắn sau đó cùng
với nguyên Tổng đốc Quảng Nam Ngô Đình Khôi (anh ruột Ngô Đình
Diệm) và Ngô Đình Huân (con trai của Ngô Đình Khôi). Chuyện này do Tố Hữu – Chủ
tịch lâm thời thành phố Huế kể cho Trần Huy Liệu nghe.
Di hài ông
được tìm thấy năm 1956 trong khu rừng Hắc Thú, và được cải táng ngày 9 tháng 2
năm 1956 tại Huế, trong khuôn viên chùa Vạn Phước.
Thông tin về
ai đã ra lệnh giết ông được lý giải theo nhiều giả thuyết khác nhau.
Cái chết của
Phạm Quỳnh
Cuốn Tác
gia văn học Thăng Long Hà Nội từ thế kỷ XI đến giữa thế kỷ XX, mục về
Phạm Quỳnh (1892-1945) cũng có một dòng: Đến Cách mạng Tháng Tám 1945
chính quyền nhân dân khép án tử hình.
Có lệnh cấp
tốc di dời Ngô Đình Khôi và Phạm Quỳnh ra khỏi cố đô đề phòng những
chuyện bất trắc không hay sau này. Nhóm du kích áp tải đến một quãng rừng cách
xa Huế thì nghe tiếng tàu bay Pháp ầm ì trên đầu tưởng đâu như tiếng máy bay
thả biệt kích. Sợ không hoàn thành trách nhiệm di dời nên nhóm áp tải đã tự
động thủ tiêu cả ba người mà không chờ chỉ thị của cấp trên. Giả thuyết này
không đề cập đến cấp trên là ai hay cơ quan nào ra lệnh.
Có người cho
rằng trong số người đi áp tải đó có người nhà Thượng thư Nguyễn Hữu Bài,
người có mối hiềm từ lâu với Phạm Quỳnh nên đã lợi dụng việc này mà giải quyết
ân oán.
Có nguồn tin,
vì Pháp cho biệt kích tìm Phạm Quỳnh nhưng nhóm này bị bắt và để lộ thông tin,
và Phạm Quỳnh bị dân quân địa phương (Hiền Sĩ, Thừa Thiên, Huế) giết.
Nhà văn Thái
Vũ lý giải:
“Mà lúc ấy
trong dân chúng, buổi đầu cách mạng, cũng là trong ngày đầu chính quyền mới do
dân làm chủ thì mấy tiếng Việt gian, diệt Việt gian kèm theo hành động lan
truyền… khắp mọi nơi, nhất là đối với những người có “thành tích” thân Pháp. Mà
hai cụ họ Phạm và Ngô thì rõ ràng quá, tránh sao lúc trong dân, chỉ mới hưởng 1
ngày đầu chính quyền cách mạng, còn căm thù bọn thống trị Pháp và đám tay chân
người bản xứ của chúng, có hành động manh động. Đó hẳn là “nỗi uẩn khúc” cuối
cùng của ông chủ báo Nam Phong”
Phạm Quỳnh
được coi là người đi tiên phong trong việc dùng tiếng Việt để viết lý
luận. Dương Quảng Hàm đánh giá các công trình của ông là đã “luyện
cho tiếng ta có thể diễn dịch được các lý thuyết, các ý tưởng về triết học,
khoa học mới.”
Trước đây,
cũng có nhiều người cho rằng ông gắn bó với các chủ trương chính trị của thực
dân Pháp. Ông bị coi là “ru ngủ” thanh niên trí thức trong cái “hồn nước” mơ
hồ, khiến họ đi chệch khỏi chí hướng làm cách mạng chống Pháp. Trong một thời
gian dài, quan điểm chính thống của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam gọi ông là tay sai đắc lực của Pháp.
Gần đây, tại
Việt Nam
bắt đầu có sự đánh giá công bằng hơn. Từ điển Văn học bộ mới (2004)
coi ông là người có tinh thần dân tộc, ôm ấp một chủ nghĩa quốc gia theo xu
hướng ôn hòa, lấy việc canh tân văn hóa để làm sống lại hồn nước. Kể từ
năm 2000, nhiều tác phẩm của Phạm Quỳnh đã được xuất bản tại Việt Nam:
Mười ngày ở
Huế, NXB Văn học – 2001; Luận
giải Văn học và Triết học, NXB Thông tin, 2003; Pháp du hành trình
nhật ký, NXB Hội Nhà Văn, 2004; Thượng Chi văn tập, NXB Văn
học, 2007; Du ký Việt Nam, NXB Trẻ, 2007; Phạm Quỳnh – Tiểu
luận viết bằng tiếng Pháp, NXB Tri thức, 2007 (gồm những bài diễn
thuyết, bài báo ông viết bằng tiếng Pháp từ 1922 đến 1932)
Những đánh giá
về Phạm Quỳnh :
Trước đây, khi
Thượng Chi làm báo Nam Phong người ta kết tội ông làm bồi bút
cho Pháp, khi ông làm Thượng thư bộ học bị kết tội Việt gian, bán nước. Những
gì của con người này đều xấu xa tỉ như câu danh ngôn tuyệt hay sang sảng niềm
tự hào về văn hóa dân tộc “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn nước
ta còn” bị lên án là đánh lạc hướng quần chúng để không nghĩ tới việc cấp
bách là giải phóng dân tộc.
Hồ Chí
Minh : “Cụ Phạm là người của lịch sử, sẽ được lịch sử đánh giá lại sau này”
Trong báo cáo
ngày mồng 8 tháng 1 năm 1945 gửi cho đô đốc Decoux và cho Tổng đại diện
Mordant, ông Thống sứ Trung Kỳ Healewyn đã báo cáo về Phạm Quỳnh như sau:
”Vị
Thượng thư này vốn đã chiến đấu suốt cuộc đời mình bằng ngòi bút và bằng lời
nói, không bao giờ bằng vũ khí chống sự bảo trợ của Pháp và cho việc khôi phục
quyền hành của Triều đình Huế trên cả ba kỳ (Bắc, Trung Nam) và cho việc người
Việt Nam nắm trong tay vận mệnh của chính mình… Những yêu sách của Phạm Quỳnh
đòi trở lại việc chấp thuận một chế độ tự trị hoàn toàn cho hai xứ bảo hộ
(Trung Kỳ và Bắc Kỳ) khước từ chế độ thuộc địa ởNam Kỳ và thành
lập một quốc gia Việt Nam. Tôi xin lưu ý ngài một điều là, dưới vẻ bề ngoài nhã
nhặn và thận trọng, con người đó là một chiến sĩ không lay chuyển nổi cho nền
độc lập của Việt Nam và đừng hòng có thể làm dịu những tình cảm yêu nước chân
thành và kiên định của ông ta bằng cách bổ nhiệm ông ta vào một cương vị danh
dự hoặc trả lương một cách hậu hĩ. Cho tới nay đó là một địch thủ thận trọng
nhưng cương quyết chống lại sự đô hộ của nước Pháp và ông ta có thể sớm trở
thành một kẻ thù không khoan nhượng…”.
Nguyễn Công
Hoan :
“…Phạm
Quỳnh, trái lại chủ trương thuyết lập Hiến. Người Pháp nên thi hành
đúng Hiệp ước 1884 nghĩa là chỉ đóng vai trò bảo hộ còn công việc
trong nước thì để vua quan người Nam tự đảm nhiệm lấy. Bấy giờ Phạm Quỳnh vào
Huế làm quan không phải vì danh. Quốc dân biết tên Phạm Quỳnh hơn nhiều Thượng
thư Nam
Triều. Mà cũng chẳng phải vì lợi. Đơn cử làm chủ bút Nam Phong, Phạm Quỳnh được cấp 600
đồng một tháng. Món này to hơn lương Thượng thư. Phạm Quỳnh ra làm quan chỉ đổi
lấy danh nghĩa Chính phủ Nam
Triều đòi Pháp trở lại Hiệp ước 1884. Vậy là một người yêu nước như Phạm Quỳnh
sở dĩ phải có mặt trên sân khấu chính trị chẳng qua là một việc miễn cưỡng trái
với ý mình để khuyến khích bạn đồng nghiệp làm việc cho tốt hơn chứ thực lòng
một người dân mất nước ai không đau đớn ai không khóc thầm. Thế là tôi nghĩ ra
được truyện Kép Tư Bền tả một anh kép nổi tiếng về bông lơn đã phải vì giữ tín
nhiệm với khán giả mà lên sân khấu nhà hát làm trò cười ngay cái tối cha mình
đang hấp hối”.
Giáo sư Văn
Tạo:
“Phạm
Quỳnh không có hành vi nào tàn ác với nhân dân, không đàn áp các cuộc khởi
nghĩa nông dân như nhiều quan lại thời Nguyễn, không ra lệnh bắt bớ tù đày các
nhà yêu nước (…). Nhưng mặt khác ông lại có công chuyển tải văn hóa Đông – Tây
trên văn đàn, báo giới Việt Nam, góp phần làm phong phú thêm cho ngôn ngữ, văn
hóa dân tộc Việt Nam thời đầu thế kỷ XX, công lao đó đáng được ghi nhận”.
*
Tạ Thu Thâu (1906–1945) là một nhà cách mạng Việt Nam đầu thế
kỷ XX, một lãnh tụ Cộng sản Đệ Tứ thời sơ khai của các phong
trào cộng sản tại Đông Dương, theo chủ nghĩa Trốtskít. Nhà
nghiên cứu Thiếu Sơn đánh giá “Không ai phủ nhận được tấm lòng yêu nước của
ông, chẳng những yêu nước mà còn dám xả thân hy sinh cho nước. Chỉ có điều khác
là nói tới nước, ông liền nghĩ tới dân, thứ nhất là dân vô sản”.
Tới nay, tuy
không có tranh cãi về việc mặt trận Việt Minh sát hại Tạ Thu Thâu, vẫn còn nghi
vấn về lệnh giết từ đâu đến. Giả thuyết của nhà sử học Daniel Hémery cho rằng
các cấp chỉ huy địa phương ở Quảng Ngãi nhận lệnh cấp trên đã ra lệnh giết. Cấp
trên ở đây trực tiếp là TVG. Tạ Thu Thâu bị đưa ra pháp trường bắn ba lần mới
chết nhờ tài hùng biện thuyết phục của ông mà các đao phủ thủ không nỡ xả súng
vào người anh hùng yêu nước.
Trong buổi
phỏng vấn ngày 25 tháng 6 năm 1946, Hồ Chí Minh đã trả
lời đảng viên Xã hội Daniel Guérin về cái chết của Tạ Thu Thâu như sau: Ce fut
un patriote et nous le pleurons… Mais tous ceux qui ne suivent pas la ligne
tracée par moi seront brisés (Tạ Thu Thâu là một nhà ái quốc, chúng tôi
đau buồn khi hay tin ông mất… Nhưng tất cả những ai không theo con đường tôi đã
vạch đều sẽ bị tiêu diệt).[The Anti-Colonial Movement in Vietnam]. Cũng
khoảng thời gian 1945, người của Trần Trọng Kim hỏi Chủ tịch Hồ Chí Minh
về cái chết của Tạ Thu Thâu. Ông Hồ Chí Minh trả lời “Trệch đường ray” (Hồi ký Một
cơn gió bụi của Trần Trọng Kim)
Vì sao Việt
Minh giết Tạ Thu Thâu ? Đó là cách mà Stalin giết Trốtsky để trừ hậu
họa. Kiều bào ta hồi đó ở Pháp có xu hướng tả, hầu hết ngả về Đệ Tứ. Còn
trong nước do tuyên truyền, Trốtsky nhân vật sau Lê Nin đòi xét lại chủ nghĩa
Mác được xem là tay sai của đế quốc, cướp của giết người.Thời đó, Tạ Thu Thâu
là lãnh tụ Trốtskít ở Việt Nam. Ông là cây bút sắc bén (giỏi viết báo Pháp ngữ
và Việt ngữ), một diễn giả xuất sắc hùng biện, một trí thức có uy tín, nhân
cách ôn hòa nhũn nhặn. Tạ Thu Thâu hoạt động mạnh ở Sài Gòn và tiếng tăm vang
xa cả nước. Ông chống Pháp, bị bắt 6 lần, 5 lần bị kết án, tổng cộng 13 năm tù
10 năm biệt xứ. Năm 1945, từ Côn Đảo được thả, Việt Minh đón đường bắt lọng và
sát hại ông trên cánh đồng Mỹ Khê, Quảng Ngãi. Một cuộc đời xán lạn vì dân vì
nước lãnh cái chết thật bi thảm, lãng nhách
Sau giải
phóng, người ta đổi tên đường Tạ Thu Thâu sau chợ Bến Thành thành đường Lưu Văn
Lang, đường mang tên ông ở Mỹ Tho cũng bị đổi. Tạ Thu Thâu chỉ được nhắc đến
cái tên với định danh “Tay sai cho đế quốc,
mật thám cho phát xít Nhật”. Sao bất công thế, hả Trời ?
*
Những người
bị giết đều là những tinh hoa, là danh sĩ đạo cao đức trọng, yêu
nước thương dân, có thành tựu văn hóa sáng giá cống hiến cho nền văn hiến nước
nhà. Họ chết mỗi người mỗi cách đau xót và hàm oan: Nhà văn Lan
Khai bị xô xuống vực, văn hào Ngô Tất Tố bị bức cho treo cổ tự vẫn, Khái Hưng
bị bỏ rọ trắn sông, Phạm Quỳnh đối thủ đáng gờm của thực dân Pháp bị xử
tử, Tạ Thu Thâu nhà yêu nước lớn bị tử bắn; nàng thơ nữ sĩ Thu Hồng bị
bắn lén từ sau lưng; Nhượng Tống dịch giả tài hoa số 1 bị ám sát; Dương Quảng
Hàm vị giáo sư đáng kính ra khỏi nhà đi mãi không về; vị bồ tát Thiếu
Chửu bị bức hại nhảy xuống sông tự tận. Cái án “mạc tu hữu” (Giết rồi sau sẽ
biết) của thời trung cổ vẫn đeo đẳng khốc liệt đến tận bây giờ !
Đó là tất
cả sự thực về những cái chết tức tưởi oan khuất của các nhà văn, nhân sĩ mà bọn
gieo ác vẫn sống nhởn nhơ trên pháp luật với bộ mặt người lương thiện ! Nguyên
tắc bất di bất dịch nằm trong ý thức hệ tư tưởng của những kẻ sát nhân lương
thiện này là: yêu nước và chính kiến là độc quyền của tao, mày không đi với tao, mày là kẻ thù của tao. Đã
là kẻ thù thì mày không có quyền tồn tại !
Giết người
nhưng không bao giờ nhận trách nhiệm là thủ phạm, thường họ vẽ rồng vẽ rắn tung
hỏa mù trên các sách báo, làm chúng ta ngộ nhận họ như những ân nhân.
Trâng tráo nhất là vụ tìm hài cốt nhà văn Lan Khai đăng hai kỳ trên báo Văn
Nghệ. Thật là nói láo không có nghề, luận cứ hở toang hoác ra. Chẳng lẽ tôi
lại viết một bài vạch mặt sự dối trá này ra. Làm thế, người ta lại bảo ông này
nhiễu sự.
(hết)
*
LỜI NHẮN :
Thưa bạn
đọc. Tôi viết loạt bài “chuyện bây giờ
mới kể” từ Thân phụ tôi, Chị tôi, Những cái chết tức tưởi
của nhà văn…là để làm gì ? Đấy là những mảnh của một công trình triết học
bàn về Chân Lý mà tôi đang đeo đuổi suốt mấy năm nay chứ không phải là những
lời lẽ rẻ tiền thóa mạ những sai lầm của Đảng và Nhà nước trong quá khứ, nó chỉ
là dẫn liệu cần thiết làm sáng tỏ vấn đề khoa học đang bàn chứ không phải là
mục đích. Chức năng cao cả của các bài viết này là cảnh báo, cảnh tỉnh,
ngăn chặn những sai lầm ấu trĩ đã qua sẽ và đang xẩy ra nhỡn
tiền và tương lai của giới cầm quyền hiện nay. Bởi lịch sử bao giờ cũng đi
những bước trùng lặp. Hậm hực, chửi bới, chỉ trích vô lối vô luân như một con
mụ nhà quê lắm mồm là việc làm của bọn cầm bút tiểu nhân. Đưa ra một quyết
sách cứu nước, cứu dân dẫu có đau đớn và cay đắng đến đâu thì đó là
phong cách của người cầm bút quân tử.
Thấu hiểu tinh
thần đó nên bạn đọc bốn phương đã yêu quý, trân trọng dành cho các bài viết của
tôi một tình cảm thật nồng hậu của những công dân có lương tri lương năng. Xin
đa tạ.
“Tôi nghĩ mọi
người Việt thế hệ chúng ta cần ôn lại bài học này, kể cả các đảng viên ĐCSVN.
Ôn lại không phải để oán trách hận thù. Ôn lại cũng không phải để tự dày vò vì
mặc cảm tội lỗi, nhưng để có một tâm tình sám hối lành mạnh. Ôn lại để từ thế
hệ chúng ta trở đi không bao giờ còn vấp phải sai lầm kinh khủng của thời mê
muội độc ác đó nữa. Và ôn lại để mở một lối đi mới hướng về tương lai: dứt
khoát tìm lại bằng được những di sản tinh thần cao quý của tổ tiên mà đã một
thời ta dại dột đánh mất, và từ đó mà vượt qua quá khứ đau buồn để cùng nhau
xây dựng cho thế hệ hôm nay và mai sau, để cho những khổ đau và xương máu của
những người đi trước chúng ta không trở thành vô ích”. Xin mượn lời một commen
ở Nguyen Xuandien.com – thay lời muốn nói gửi tới các bạn …
Thái Doãn
Hiểu
Nhận xét