Nguyễn Kiên Giang: BÀN THÊM VỀ CHUYỆN “HÒN ĐÁ LẠ” Ở ĐỀN HÙNG
BÀN THÊM VỀ CHUYỆN
“HÒN ĐÁ LẠ” Ở ĐỀN HÙNG
Nguyễn
Kiên Giang
PNTB: Nhân ngày Giỗ Tổ Hùng Vương, PNTB xin hầu quý vị bài viết của Kiên Giang trong lúc cả nước đang xôn xao về "hòn đá lạ" xuất hiện ở Đền Hùng.
Sau bài
viết “Vài nhận định về hòn đá mang đạo bùa tại Đền Hùng” đăng trên trang TỄU – BLOG tôi
cùng một số bạn trẻ (Nguiễn Lyn – Tây Ninh, Triển Đình – TP.HCM) tiếp tục
nghiên cứu về vấn đề này. Hy vọng sẽ có kiến giải rõ ràng hơn nữa.
a.
Trong lần tu bổ khu di tích lịch sử Đền Hùng vào năm 2009, do phát hiện ra một
viên gạch lạ ở Đền Thượng có ghi Hán tự có nghĩa: “Đánh đổ đức sáng vua Hùng” –
và viên gạch này hiện vẫn còn để tại Bảo tàng Hùng Vương (?). Ông Nguyễn Minh
Thông (một pháp sư, hiện là Giám đốc Trung tâm ứng dụng văn hóa phương Đông) có
ý kiến với ông Nguyễn Tiến Khôi (Giám đốc Ban quản lý khu di tích Đền Hùng lúc
đó) và lãnh đạo tỉnh Phú Thọ: “Viên gạch này tựa như bùa yểm xấu (còn
gọi yểm đảo, không rõ ai đặt dưới nền cát, có từ bao giờ...) nên sau
khi hoàn thành tu sửa Đền Thượng thì rất nên có đá đặt ở Đền để
trấn yểm “phản” lại viên gạch yểm xấu kia”. Sau đó, “một số nhà khoa
học, chuyên gia ngoại cảm đã vào cuộc hội thảo nhiều lần, khẳng định
viên gạch này có từ cuối thời Trần, do đạo sỹ của quân Nguyên Mông
mang đến đặt. Thời đó phía Nguyên Mông bị thua trận vì bị nhà Trần
ta đánh tan ba lần, đã cử đạo sỹ được cải trang sang nước Nam ta,
dùng thủ đoạn yểm bùa gạch này tại Đền Thượng”. Được sự đồng ý của
ông Khôi và “một số lãnh đạo tỉnh Phú Thọ”, ông Thông nhận việc trấn yểm lại
viên gạch lạ đó. Ông Thông đã “may mắn” được “ông Nguyễn Đình Khảm (Giám đốc
một Cty đá quý trong Hội liên hiệp đá quý Việt Nam ở Hà Nội) công
đức viên đá ngọc xanh này”. Viên đá đã đáp ứng mong muốn của ông Thông được
ông này là “tác giả” của “hòn đá lạ” đó! Ngoài công dụng khắc chế lại tác hại
của viên gạch lạ, ông Thông còn cho rằng nó còn “có khả năng hóa giải các
hung khí và tiếp nhận năng lượng tốt của tinh tú trời đất cho Đền
Hùng”.
b.
“Mặt trước đá chạm: “Trận đồ bát quái thiên tinh Phật Tổ Như Lai”
dựa trên trận đồ bát quái trong Binh thư yếu lược của nhà Trần và
theo mô phỏng của Từ điển thuật ngữ quân sự, gọi là Thiên tinh vì
ghép tượng hình chòm sao Bắc Đẩu và trận đồ của Đức Thánh Trần
ứng dụng khi đánh quân Nguyên Mông. Trên mặt của Trận đồ còn có câu
mật chú thiền phái Mật Tông làm tăng hào quang của Phật và độ linh, độ
uy của Phật để giải hóa bách nạn, bách khổ, bách bệnh cho nhân dân.
Ông Thông khẳng định phải có linh khí của Phật thì mới cùng với linh
khí của Đức Thánh Trần kết hợp thì mới hóa giải được bùa phép
nguy hiểm đã bị yểm đảo của giặc phương Bắc.
Văn
bản trả lời của ông Thông cho biết tiếp, mặt sau của viên đá ngọc,
phía trên là Ấn của Vua Hùng (mà hiện BQL Khu di tích lịch sử Đền Hùng
đang dùng để in vào các tờ phiếu ghi công đức), dưới có chạm lá bùa giải
bách họa cho nhân dân mà các nhà sư đi tu ai cũng biết.
Từ
ngày được hóa giải đến nay, ông Thông cho rằng tỉnh Phú Thọ và Khu di
tích Đền Hùng được đánh giá là phát triển rất tốt đẹp. Theo năm
tháng, viên đá ngọc sẽ ngày càng tích năng lượng thu phát, các địa
phương khác cùng với Phú Thọ cùng được hưởng phúc. Ông cũng cam đoan
viên đá đang rất linh ứng và hiệu nghiệm”.
Theo
“Tiền Phong
Online”
2.
Trong bài viết “Vài nhận định về hòn đá mang đạo bùa tại Đền Hùng” (nhận định
căn cứ vào 02 hình ảnh có được dó TS Nguyễn Xuân Diện cung cấp), sau khi đã xem
xét hòn đá ở các góc độ (mặt trước, mặt sau và chân đế), tôi nhận định sơ lược
rằng: Nó là đạo bùa “Cát”, tức là bùa lành! Nhận định đó là nhận định về thông
điệp mà hòn đá chuyển tải (xét công năng của bản thân nó theo những gì nó thể
hiện). Chính ông Nguyễn Minh Thông - tác giả hòn đá cũng nói rằng nó “có khả
năng hóa giải các hung khí và tiếp nhận năng lượng tốt của tinh tú
trời đất cho Đền Hùng” đó thôi!
Theo
những gì được biết từ bài báo đã dẫn, tôi xin phép đưa ra quan điểm cá nhân như
sau:
a. Ông
Nguyễn Tiến Khôi đã không thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình (ở vị trí
Giám đốc BQL Khu di tích lịch sử Đền Hùng) khi xử lý vấn đề này một cách vô
nguyên tắc như vậy.
Hãy
nghe người kế nhiệm của ông Khôi là ông Nguyễn Xuân Các (hiện là Giám đốc BQL
Khu di tích lịch sử Đền Hùng) nói: “Mọi vật phẩm có mặt tại đền Thượng nói
riêng và khu di tích lịch sử Đền Hùng nói chung đều phải được phép của Ban quản
lý và phải có hồ sơ, chứ không thể tùy tiện muốn đặt đâu cũng được. Hòn đá này
hoàn toàn không có hồ sơ trong hồ sơ tu bổ đền Thượng”. Ông Các nói, việc bỏ
lọt hồ sơ vật phẩm cung tiến này đã vi phạm nghiêm trọng Luật Di sản văn hóa và
cần làm rõ, truy trách nhiệm cụ thể”.
Theo
“Dân trí”
Ông
Khôi biện hộ rằng “Đã làm tâm linh thì không thể bày vẽ hết các việc được. báo
chí mình cứ nói lung tung thế thì còn gì là tâm linh nữa. Anh em cứ giở khoa
học ra thì còn gì là tâm linh nữa”. Tôi nhận thấy sự bức bối trong những lời
này của ông. Đúng thật, đặt mình vào vị trí của ông, trước một vấn đề như vậy
(nếu đúng như vậy!), bất kỳ ai cũng lúng túng vì: không hành động thì không
không đành, mà hành động thì lâm vào cảnh “nhân dân bảo có, nhà nước bảo không,
các nhà khoa học thì đang nghiên cứu!”… biết sao cho vừa. Nên, việc ông trả lời
một cách quẫn lý như vậy cũng đáng để chúng ta chia sẻ.
Tôi chỉ
bàn đến cách xử lý của ông Khôi, vì “một số lãnh đạo tỉnh Phú Thọ” kia thì rất
mơ hồ. Vấn đề là ai cố vấn cho ông? Sự cố vấn đó thế nào?
b.
Người đó là ông Nguyễn Minh Thông (là một pháp sư, hiện là Giám đốc Trung tâm
ứng dụng văn hóa phương Đông).
Theo
những gì ông Thông chia sẻ với báo giới, tôi nghĩ rằng ông đã cho chúng ta biết
quá sơ sài, quá ít ỏi về lĩnh vực mà chúng ta vốn đã rất mơ hồ này. Tôi không
khỏi băn khoăn tự hỏi: Hay, chính ông ta cũng mơ hồ nhỉ?!
Những
vấn đề cần ông Thông và những người liên quan làm rõ thêm để xua tan sự mơ hồ
đó là:
- Viên
gạch lạ được phát hiện ở Đền Thượng đó đang ở đâu (“nói có sách, mách có chứng”
nhé)? Văn bản từ những hội thảo gồm “các nhà khoa học và một số nhà ngoại cảm”
để kết luận viên gạch “do quân Nguyên trấn yểm” đâu rồi? Khi phát hiện viên đá,
ông Thông có ý kiến rằng nó “tựa như bùa yểm xấu”, vậy tức là ông không dám
khẳng định chắc chắn? Cứ cho là ý kiến của ông đúng, thì nó thuộc loại bùa gì,
tạo nên từ cơ sở nào, dựa vào pháp lực nào, pháp lực đó tới đâu…? Nếu không trả
lời được những câu hỏi này mà ông đã vội tìm cái viên đá kia làm bùa trấn yểm
lại thì đúng là “nhắm mắt lao đầu vào kẻ địch giữa sương mù”, chí nguy! Hơn
nữa, theo như ông, thì viên gạch đã được đưa ra khỏi Đền Thượng, tức là cái
“cần bị trấn yểm” đã không còn nữa, thì cái “dùng để trấn yểm” có tác dụng gì,
trấn yểm gì nữa đây!
Trao
đổi với TS Nguyễn Xuân Diện, được biết căn cứ vào các dấu tích kiến trúc thì
Đền Hùng được xây cất khá muộn, và vào thời nhà Trần thế kỷ 13 thì việc “tên
giặc Nguyên” nào đó lén đến Đền Hùng trấn yểm là kết luận khó thuyết phục.
- Về
dòng chữ Hán (hay chữ Mông Cổ ?) trên viên gạch, theo ông Khôi và ông
Thông cho biết nghĩa là: “Đánh đổ đức sáng vua Hùng”, thì thật sự quái lạ!
Chúng ta hãy xét cái văn phong, văn khí này của “tên giặc Nguyên” khi dùng các
từ “đức sáng”, “vua Hùng”, tôi không đủ cơ sở để kết luận, nhưng mọi người chắc
sẽ có nhìn nhận của mình. Và điều này, trong phép trấn yểm, chẳng có pháp nào
là trấn yểm cái “đức sáng” cả (Có thì chỉ ra cho tôi mở mắt với)!
- Về
hòn đá được ông Nguyễn Đình Khảm công đức mà ông Thông dùng làm bùa
trấn lại viên gạch lạ, theo tôi biết, nó chẳng phải là “đá ngọc xanh” gì, và
cũng chẳng thấy được “chạm ngọc rubi và nhiều loại ngọc quý khác” như ông nói.
Loại đá đó là đá Caxedon, một trong những loại đá thông dụng trong phong thủy,
có ở các tỉnh Tây Nguyên của ta. Loại đá này được tạo tác bằng cách đánh bóng
như vậy chỉ có hơn 10 năm trở lại đây. Đá phong thủy Caxedon cũng là thạch anh,
nhung dạng tinh thể rất nhỏ (không lớn như thạch anh) gọi là ẩn tinh. Như vậy,
thực chất đá phong thủy Caxedon không khác thạch anh về tinh chất hóa lý, mà
chỉ khác về kích thước tinh thể. Đá Caxedon có tác dụng làm an bình tâm lý tình
cảm của con người. Khuyên đeo đồ trang sức bằng đá canxedon đối với những người
dễ bị kích động ngoài ra nó còn giúp điều trị bệnh loạn thần kinh và chức năng
trầm uất. Đá phong thủy Caxedon cũng được coi là viên đá của tình yêu, nó thu
hút trái tim của đàn ông về phía phụ nữ. Đồ trang sức hay đá bằng canxedon màu
xanh da trời có khả năng loại trừ nỗi sợ hãi, đem đến cho người chủ niềm tin
vào sức mạnh của chính mình.
(Tham
khảo http://haihoang.com/home/index.php?route=product/category&path=35&page=3,
mẫu C.333)
- Về
các phép tạo công năng của hòn đá mà ông Thông vận dụng, chúng ta thấy
hỗn hợp các phép: Thần chú (Chân ngôn) của Phật giáo Mật Tông (Tây Tạng), Phù
thuật của Đạo gia, Trận đồ của Binh pháp gia, Quẻ của Dịch học.
+ Về
Thần chú (Chân ngôn) của Phật giáo Mật tông (Mật tông và Thiền tông là
hai tông của Phật giáo, khác nhau ở pháp tu tập. Không có chuyện “thiền phái
Mật tông” như bài báo nói), ta thấy ở mặt có dấu ấn (ấn vuông có bốn chữ “Tổ
Vương Tứ Phúc”), một dòng chữ Phạn chạy dọc bên trái, đó là câu thần chú nổi
tiếng nhất trong Phật Mẫu Chuẩn Đề Thần Chú: “Án Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà
ha”. Chú Chuẩn Đề thường được các pháp sư dùng để cầu an gia trạch, trừ quỷ mị.
Nhưng có vẻ, dòng chữ trên hòn đá này đã viết sai vì thiếu một chữ; Ở mặt có đồ
hình Bát trận đồ (mà ông Thông goi là “Trận đồ bát quái thiên tinh Phật
Tổ Như Lai”), có một dòng chữ Phạn nhỏ chạy dọc bên phải, sáu chữ cuối nhìn rõ
đó là Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn – Chân ngôn quan trọng nhất của Phật giáo Mật
tông Tây Tạng: “Án Ma Ni Bát Mị Hồng”. Câu thần chú được coi là vi diệu nhất
đối với sự trì tụng của người Tu mật.
+ Về
Phù thuật của Đạo gia, ở mặt có dấu ấn, họa tiết lớn nằm giữa là họa tiết
của đạo bùa có tên “Bách giải tiêu tai phù” (cũng là hàng Hán tự chạy dọc bên
phải), là bùa được các pháp sư dùng nhằm giải tai ách như ông Thông đã nói.
+ Về
đồ hình trận đồ mà ông Thông gọi là “Trận đồ bát quái thiên tinh
Phật Tổ Như Lai” dựa trên Binh thư yếu lược của nhà Trần và theo mô phỏng của
từ điển Thuật ngữ quân sự. Những chữ tôi in đậm cho phép tôi suy luận rằng: ông
Thông đã tự tạo ra cái đồ hình này từ những cơ sở trên, theo cái logic của ông.
Tôi thắc mắc là ông Thông có để ý điều này không: chòm sao Bắc Đẩu (Tiểu Hùng
tinh) mà ông thể hiện trên hòn đá (chắc là để định hướng cho đồ hình) bị cắt
mất hai ngôi sao ở phần đuôi là thế nào?! Bát trận đồ của Gia Cát Lượng bên Tàu
hay Bát trận đồ trong Binh thư yếu lược, mà nói chung là Trận đồ (đồ hình trận
pháp) của Binh gia giống như những sơ đồ công thức của toán học, để người học
võ bị dễ nắm bắt các phép tắc căn bản của việc giàn trận địa trên chiến trường.
Bản thân việc lập trận đồ có một khuyết điểm là bị động chờ địch tiến vào. Như
vậy, trận đồ có tác dụng phòng thủ trước sự tấn công của yếu tố từ bên ngoài
và/ hoặc giam hãm yếu tố bên trong. Thế thì ở đây, ông Thông thể hiện cái trận
đồ đó để chống yếu tố bên ngoài và/ hoặc giam hãm yếu tố bên trong nào?! Mà tôi
cũng chẳng thấy cái trận đồ đó giống với cái nào ở Binh thư yếu lược cả!
+ Vể
áp dụng quẻ trong Dịch học, như tôi đã trình bày ở bài trước, chân đế của
hòn đá có hình Bát quái, mỗi mặt có ba vạch liền nhau - biểu hiện của quẻ Càn
(Trời, đơn quái). Có nghĩa là: Càn (Trời/ Thiên) trong Bát quái; Hòn đá nằm
trên có thể hiểu là ngụ ý chỉ núi (Sơn, Cấn trong Bát quái). Như vậy, điều này
ứng với quẻ thứ 26 trong Dịch lý: “Sơn Thiên Đại Súc” hay còn gọi là “Đại súc”.
Quẻ được kết hợp bởi nội quái là Càn (Trời) và ngoại quái là Cấn (Núi). Ý nghĩa
của quẻ này là: Tích tụ, lắng đọng một chỗ, súc tích, để giành, đồng loại tụ
họp vui vẻ, cục bộ. Chính ông Thông cũng nhận định rằng: “Theo năm tháng, viên
đá ngọc sẽ ngày càng tích năng lượng thu phát, các địa phương khác
cùng với Phú Thọ cùng được hưởng phúc”.
Theo
những gì đã xem xét ở trên, tôi thấy rằng, ông Thông đã sử dụng hỗn hợp các
phép của nhiều “Nhà” khác nhau và kết hợp lại theo logic của ông, giống như logic
của nhiều vị pháp sư không mấy tinh thông đạo thuật. Để chứng minh thêm cho cái
nhận định có vẻ “thiếu phép tắc giao tế” và “khó chịu” vừa rồi của mình, tôi
xin phát biểu mấy ý:
* Thế
giới tâm linh cũng tuân theo những quy luật, những nguyên tắc của nó, sự vận
hành của nó dựa trên những nền tảng căn bản riêng. Đến từ đâu thì quay về đó,
sinh từ đâu thì diệt ở đó… Những người nghiên cứu vấn đề này là những nhà Huyền
học. Huyền học cũng đáng là một địa hạt khoa học. Chứ không phải như ông Khôi
nói: “Anh em cứ giở khoa học ra thì còn gì là tâm linh nữa”.
* Ông
Thông khẳng định: “phải có linh khí của Phật thì mới cùng với linh
khí của Đức Thánh Trần kết hợp thì mới hóa giải được bùa phép
nguy hiểm đã bị yểm đảo của giặc phương Bắc”, và ông cho viết Thần chú
bằng Phạn ngữ cũng như chữ Vãng (chữ Vạn ngược) lên hòn đá, chắc là do ông chưa
biết những điều này: Thứ nhất, trong kinh Ban Châu tam muội, Đức Thế Tôn Thích
Ca răn dạy đệ tử mình như sau: “Không được bói hỏi xin bề trên, phù chú yểm yêu
quái, tế tự giải tấu, cũng không được chọn ngày tốt giờ tốt”. Thứ hai, Thần chú
hay Chân ngôn của Mật tông là để những người Tu mật niệm trì, gọi là khẩu mật,
đồng thời kết hợp với thân mật và ý mật quán pháp môn ba mật tương ứng giúp cho
người tu trì không khởi vọng niệm. Nhưng tu trì theo Mật tông, phải qua chính
miệng vị A-Xà-Lê (Quỹ phạm sư) truyền thụ mới có hiệu lực, nếu không thì tất cả
sẽ rặt nói suông (Cư sĩ Vu Lăng Ba). Vậy, thần chú bằng chữ Phạn và những hoa
văn khác của Phật giáo được thể hiện trên hòn đá còn có ý nghĩa gì nữa không!
3. Để
kết thúc bài viết, tôi xin chia sẻ mấy suy nghĩ sau:
a.
Chúng ta lúng túng và bát nháo lên như vậy là vì chưa có một nền tảng học thuật
nghiêm túc với đội ngũ nhân lực đủ kiến văn trong lĩnh vực tâm linh, trên địa
hạt Huyền học. Chúng ta nên nhìn nhận lại vấn đề này và có sự chuẩn bị chu đáo
hơn.
b. Nên
di dời hòn đá ra khỏi vị trí hiện nay bằng phương cách và trình tự chuẩn mực để
tránh sai sót không đáng có. Đơn giản vì: Đó không phải và không nên là chỗ của
nó!
c.
Chúng ta nên sắp xếp gọn gàng vấn đề này để tránh những hao phí vô ích về thời
gian, nhân lực, tài lực. Chỉ cần một nhân sĩ có uy tín đứng ra trao đổi nghiêm
túc với những người liên quan và những người có sở học, chọn một giải pháp di
dời hiệu quả nhất, rồi trình đề xuất lên cấp có thẩm quyền để thực hiện là ổn.
Tôi là
hậu sinh, tuổi đời còn trẻ, kiến văn còn hạn hẹp, cúi mong các bậc trưởng bối
đại xá!
N.K.G
Theo Tễu blog
Nhận xét