395.Đi khai hoang (tiếp theo)
Đi khai hoang (tiếp theo)
II
Gia đình tôi là một trong mười hộ trong làng
xung phong đi theo cuộc vận động. Mười hộ này được ghép thêm một hộ ở làng khác
là mười một và thành lập một hợp tác xã nông nghiệp, lấy tên là hợp tác xã Tân
Phong. Hợp tác xã do anh Nguyễn Văn Lời, anh họ tôi làm chủ nhiệm, anh Bùi Văn
Kiêu làm phó chủ nhiệm. Lúc ấy, tôi là người có “trình độ văn hoá cao”
nên được cử làm kế toán, mặc dù tôi chẳng hiểu kế toán là gì. Trước khi Hợp tác
xã lên đường, chủ nhiệm, phó chủ nhiệm đã có chuyến đi tiền trạm để làm nhà cho
bà con, khi mọi người lên là đã có sẵn nhà ở. Sau gần một tháng, chủ nhiệm và
phó chủ nhiệm về thông báo: “Đã có nhà cửa tươm tất. Đất đai, rừng núi mênh
mông. Chỉ sợ không có sức lao động thôi...”
Sáng 25 tháng Tư năm 1965, mọi người lục
tục gồng gánh, mang vác gia sản đi bộ khoảng gần một cây số đường làng để tập
kết lên đầu cầu Lăng, ven con đường quốc lộ số 10. Nhà tôi tám người đi nhưng
vẫn còn hai người ở lại. Đó là chị dâu tôi, được thày bu phân công ở lại để trông
nom mảnh đất hương hoả. Anh tôi thì đang
làm công nhân xây dựng cầu đường sắt ở Thanh hoá. Người thứ hai là em Phùng.
Hôm trước, tôi nghe thấy bu tôi nói với em: “Lần này đi Lào Cai, cháu tạm thời
ở nhà với bà ngoại cháu, để hai bác và các anh đi trước xem đồng đất ở đó làm
ăn ra sao đã, bây giờ mới đến, chân ướt chân ráo chắc là còn nhiều khó khăn
lắm. Bao giờ ổn định, bác sẽ về đón cháu lên sau.” Sáng hôm ấy, cả chị dâu và
em Phùng đều cùng cả nhà mang vác đồ đạc, hành lí. Trong lúc chờ xe ô tô của
Ban tổ chức đến đón, tôi thấy mấy lần chị dâu tôi quay đi lau nước mắt. Còn
Phùng, vốn có khuôn mặt bầu bĩnh, không mấy khi nở nụ cười thì giờ đây tôi thấy
em có vẻ mặt càng u buồn. Tôi không thể ngờ được rằng, đó chính là buổi sáng
cuối cùng thày bu và anh em chúng tôi vĩnh biệt Phùng! Sau khi gia đình tôi lên
Lào Cai chưa đầy hai năm, bu tôi chưa kịp thực hiện lời hứa về đón em, thì
Phùng đi bộ đội và rồi “Đã hy sinh tại mặt
trận phía Nam”, như tờ giấy báo tử có ghi vậy. Cho đến bây giờ, đã hơn bốn
mươi năm, ngoài tờ giấy báo tử với tám chữ cô đọng ấy thì chẳng ai biết em hy
sinh như thế nào, có phần mộ không, ở đâu?... Tất cả vẫn còn mịt mùng, im ắng!...
Hai chiếc xe ca chở mười một hộ với sáu, bẩy mươi nhân khẩu ra ga Hải Phòng, rồi
lên tàu hoả. Không phải mua vé, không phải lo gửi hành lí. Tất cả đã có người
phục vụ chu đáo. Hành lí của nhà nào đã có tên nhà nấy viết ở ngoài, không sợ
lẫn...Lần đầu tiên tôi biết thế nào là tàu hoả. Tôi cảm thấy tự hào, nghĩ là
sau này mình có thể khoe với bạn bè là: “Tao đã từng biết cái tàu hoả nó như
thế nào!..”. Mọi người chen nhau ngồi vào ghế. Còn tôi, sau khi lên đến ga Hàng
Cỏ (Hà Nội), chuyển sang tàu Lào Cai thì tôi đi quan sát hết các toa. Không
thích nơi đông người, nên tôi lẻn xuống tận toa cuối cùng, một toa đen chở đầy
gà, lợn, chó, mèo. Tôi trèo lên cái gác hành lí đầy bụi than, thảnh thơi nằm đó
một mình, ngẫm nghĩ những gì đã và sẽ xảy ra. Đầu óc cứ mung lung, mung lung.
Đôi lúc tự hỏi: đây có phải sự thật hay
là một giấc mơ? Và tôi bỗng nhớ đến một đoạn trong bài thơ Lên miền Tây của Bùi Minh Quốc: Xe
chạy nghiêng nghiêng trèo dốc núi/ Lên miền Tây vời vợi ngàn trùng/ Ôi miền Tây,
ở dưới xuôi sao nghe nói lạ lùng/ mà lúc ra đi lửa trong lòng vẫn cháy/ Cái tuổi
hai mươi khi hướng đời đã thấy/Thì xa xôi biết mấy cũng lên đường...” Bài
thơ đã ru tôi ngủ thiếp đi. Mãi đến chiều mới quay lại toa trên, nơi bà con
trong làng ngồi. Họ nói chuyện vui vẻ lắm, không biết vì phấn khởi hay vì để
cho quên đi nỗi luyến tiếc nơi chôn rau cắt rốn? Một ông ngó qua cửa sổ toa tàu
thấy có biển hiệu “kéo còi” liền thông báo cho mọi người: “Bà con chú ý, đã đến
ga Keo Cối!”. Nhiều người tưởng thật
bảo nhau: “Ga này đỗ, ta phải xuống hút điếu thuốc lào”. Nhưng tàu vẫn chạy.
Lát sau lại có người kêu lên: “Ô, đây lại có ga Keo Cối nữa!”...Thế là ai cũng
vui như Tết. Một bác kể: “ Lúc chờ ở Ga Hải Phòng lâu quá, tôi sốt ruột định đi
tìm lãnh đạo nhà ga để hỏi cho ra nhẽ. Đi loanh quanh mãi thì thấy một tấm biển
đề hai chữ Phó ga. Tôi xông ngay
vào...nhưng toàn thấy người đang ăn...phở gà!
Sau hai ngày, một đêm đằng đẵng, cũng
đến lúc con tàu phải dừng hẳn lại ở ga cuối cùng là ga Lào cai. Vị trí nhà ga
lúc ấy ở khoảng giữa đầu cầu Hồ Kiều và Cầu chui hiện nay, cửa ga nhìn ra khu
thương mại Bistit cạnh con đường Nguyễn Huệ bây giờ. Giời bắt đầu tối. Những
bóng đèn dây tóc đỏ quạch có chao bằng sắt tráng men treo trên cột điện cũng
chỉ đủ soi cho mọi người khuân vác đồ đạc, hành lí sang khu vực Phố Tèo, nơi có
những gia đình người Hoa sống lâu đời ở đây, mở quán ăn, cho thuê ngủ trọ và tràn ngựa. Mọi người ăn uống
xong, leo lên cái nhà sàn bằng gỗ, cầu thang gỗ, xung quanh vây bằng liếp nứa.
Một dãy sàn chạy dọc nhà lót giát tre bương là giường ngủ. Mọi người mắc màn và
nằm ngủ “hội đồng” trên đó. Đã cuối tháng Tư dương lịch, nhưng thời tiết Lào
Cai về ban đêm vẫn se lạnh. Mọi người đi tàu mệt nên ngủ rất say. Còn tôi thì
không ngủ được, bởi hàng loạt điều mới lạ đang va đập vào bộ não của một gã trai
bước vào tuổi mười bẩy, lần đầu tiên đi xa. Đêm thị xã Lào Cai sao mà tĩnh lặng,
như thể một vùng quê hẻo lánh. Mùi hoa ngọc lan thoang thoảng đâu đây lẫn với
mùi phân ngựa ngai ngái bốc lên từ dưới gầm sàn. Những con đom đóm từ bờ sông
Nậm Thi bay lên, lạc đến ngôi nhà sàn, soi vào tận những cái màn ám khói, nơi
có thày, bu, các em tôi và mọi người đang say giấc...
Sáng hôm sau, tất cả đều được ăn món
“phở” xào sền sệt, rất nhiều mỡ và tương ớt, có lẫn cả những sợi mì được rán
phồng rất giòn. Ngon tuyệt! Ở quê tôi, dám chắc chưa ai được ăn bao giờ... Người
chủ quán Hoa Kiều nói giọng lơ lớ, giải thích: “Cây nề là cốn suẩy, khô.. ông phẩy phơ đâu ớ”. Ông cán bộ dẫn đoàn
dịch cho mọi người: “Đây không phải phở mà là cuốn sủi, một món ăn sáng của người Tàu đấy”
Khoảng bẩy giờ, có hai chiếc xe ca đến để
đưa mọi người về quê hương mới. Đó là
thôn Cốc Tủm, xã Phong Niên, thuộc huyện Bảo Thắng. Con đường quốc lộ bẩy mươi
bấy giờ còn nguyên nền đất, toàn ổ gà, sống trâu. Hai cái xe ì ạch, vừa đi vừa
thở phì phò, gầm gừ, lắc lư như những gã say rượu. Có nhiều chỗ xe phải né
tránh những ngọn giang từ trên đồi vắt xuống đường. Khoảng ba tiếng sau, đi
được ba mươi hai cây số thì dừng lại. Ông chủ nhiệm hô to: “Đây rồi, nhà đây rồi!...” Mọi người xuống xe,
nhìn trước, nhìn sau chưa thấy nhà đâu, còn đang ngơ ngác thì chủ nhiệm lại
quát: “Không thấy à?” Theo hướng tay chỉ của chủ nhiệm lên rệ đồi: Một dẫy lán
thấp lè tè, nom như những cái lều nương của đồng bào dân tộc. Nhà tôi tám
người, nhà ông, bà Phú bẩy người được phân phối chung một “ngôi nhà” rộng chừng
ba mét, dài mười mét, được ngăn làm đôi bằng một tấm nứa đan nóng mốt. Và cũng
rất công bằng là một nửa già, một nửa non vì số khẩu không bằng nhau. Những ba
mươi mét vuông cho hai hộ, mười lăm người. Tuy vậy, chất lượng thì cần phải chỉnh sửa ngay. Những tấm nứa non đan nóng
mốt vây quanh nhà sau khoảng một tháng, nay đã khô và teo tóp lại, hở hoác ra.
Trên mái lợp bằng lá dong tươi, loại để gói bánh chưng, nhưng rất “tiết kiệm” nên bây giờ khi lá khô cong đã
để lộ ra những mảng trời xanh thẳm. Hai phần ba bề rộng của ngôi nhà phía
trong, khoảng hai mét làm giường ngủ. Đó là cái giường gỗ tươi. Nghĩa là những cây gỗ bằng bắp tay, cẳng chân, có ngoãm,
còn tươi nguyên, không bóc vỏ, được chôn xuống đất làm chân, nên mối đã leo lên
tua tủa như lông nhím. Những đoạn gỗ thẳng thì gác lên làm xà, được thống cố
vào chân giường bằng những nút lạt giang khá chắc. Giát giường là nứa non
đập dập, đã gần được một tháng, nên vừa cong, vừa mọt. Tuy vậy, trải chiếu lên vẫn
nằm tạm được. Một phần ba diện tích phía ngoài nhà giành để đồ đạc và lấy chỗ
ra vào. Bọn trẻ thì đi lại vô tư, nhưng người lớn phải cúi xuống, nếu vô ý, có
thể va đầu vào mái... dong. Xung quanh nhà, cỏ mọc xanh um, những dây bìm bìm
đã leo vào tận chân vách...
Những con dao, cái cuốc mang từ dưới quê
lên bây giờ được phát huy ngay tác dụng. Tất cả phải tập trung cho việc ổn định
tạm thời nơi ăn, chốn ngủ đã, rồi sau muốn ra sao thì ra. Thày tôi mở cái vại
sành lấy gạo cho bu tôi xuống suối vo để nấu bữa cơm đầu tiên trên quê hương
mới. Nhà nào cũng bắc tạm ba hòn đá ở ngoài trời để đun nấu. Chỉ sướng cái sẵn
củi đun, ra khỏi nhà vài bước là có đầy thứ để cho vào bếp, không như ở dưới
xuôi, anh em tôi phải vác cuốc đi giẫy cỏ gà, đập sạch đất, phơi khô làm đồ
đun. Thức ăn thì ai cũng có cá khô, vừng, lạc, mắm, muối mang theo đủ dùng...
Đêm hôm ấy, bên ngọn đèn dầu vàng quạch, người
ta xúm lại bên nhau trò chuyện đến mãi khuya. Ngoài trời, từng đàn đom đóm chập
chờn như ma trơi. Trong rừng, thỉnh thoảng có tiếng con nai tác lúc xa, lúc gần
như tiếng rao của chị bán hàng rong. Xung quanh nơi ở mới của mấy chục con người,
tiếng dế cứ rít lên từng đợt, từng đợt não nề, tê tái. Có người đã tỏ ý muốn
quay về. Nhưng thày tôi thì bảo: “Đã ra đi, cấm kì giở lại!”...
(còn nữa...)
Nhận xét