Trao, nhận Giải thưởng Văn nghệ Lào Cai

Trao, nhận Giải thưởng Văn nghệ Lào Cai
Ông Hà Xuân Kiến, thường trực HĐND tỉnh trao Giải A cho
TS.Trần Hữu Sơn với tác phẩm sưu tầm, nghiên cứu "Dân ca và truyện kể Dân gian
của người Thu Lao ở Lào Cai" và nhà văn Tống Ngọc Hân với tác phẩm
truyện ngắn: " Song Mã". Ảnh Phó nhòm.
"Xuân thu nhị kỳ", cứ vào đầu tháng 3 hằng năm Hội Văn học nghệ thuật tỉnh tổ chức Hội nghị Văn nghệ nhằm đánh giá hoạt động của năm trước, đưa ra định hướng sáng tác cho năm sau và trao Giải thưởng văn nghệ hằng năm đối với những tác phẩm được cho là "so bó đũa lấy cột cờ". 

Sở dĩ thời điểm Hội nghị phải tháng Ba (hơi "khác người") chứ không phải tháng 12 hay tháng 1 là vì phải chờ trong khoảng 2, 3 tháng để Ban Thi đua làm thủ tục trình tỉnh quyết định Giải thưởng văn nghệ. Nhưng năm nay không phải đầu tháng Ba mà là cuối tháng Ba (27/3) là vì Hội muốn chọn được một ngày mà các đồng chí lãnh đạo chủ chốt (Bí thư, Chủ tịch) tỉnh đỡ bận để đến dự với anh em văn nghệ sĩ, động viên anh em. Đây không không phải để "lấy khâu oai" mà để văn nghệ sĩ, những người vốn máu "sĩ" trong người rất mạnh mẽ có cảm giác rằng Tỉnh hết sức quan tâm... Tuy nhiên, chẳng may cho Hội, chờ mãi, chờ mãi chọn được ngày lành, tháng tốt thì Ban Chấp hành Đảng bộ lại có cuộc họp đột xuất, thành thử Bí thư, chủ tịch không xuống dự được. Đ/c Ủy viên thường trực HĐND tỉnh thay mặt Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân xuống dự. Cũng không sao, nhưng nghe đâu anh em nói từ nhiều năm nay, các đồng chí Bí thư, Chủ tịch bận nhiều việc lớn nên chưa đến được với giới văn nghệ sĩ trong những cuộc gặp mặt đông đủ như thế này.
Bằng Giải B tác phẩm Ký "Hồi sinh" của Nguyễn Ngọc Dương
Ảnh Phó nhòm

Tổng số Giải thường văn nghệ của tỉnh năm nay có 26 giải. Trong đó 2 giải A, 8 giải B, 13 giải C và 3 giải KK. Chia ra, chuyên ngành Văn học 7 giải: 1 A, 2 B, 3 C và 1 KK; Chuyên ngành Văn nghệ dân gian 3 giải: 1 A, 1 B, 1 C; Chuyên ngành Mỹ thuật có 2 B, 3 C, 1 KK; Chuyên ngành Nhiếp ảnh có 2 B, 3 C; Chuyên ngành Âm nhạc có 1 B, 2 C, 1 KK; Chuyên ngành Sân khấu - Điện ảnh có 1 C. 
Năm nay mình không ngờ được giải B chuyên ngành Văn học cho bài ký "Hồi sinh", trái chuyên ngành vì mình ở ngành Ảnh, chứ không phải ngành Văn. Việc gửi dự giải cũng là do anh em bạn nó bảo "cứ thử gửi cái bài ấy xem, biết đâu may ra...". Đúng là "may" thật, chứ văn vẻ của mình xưa nay cũng chỉ học mót anh em thôi. 
Tiện đây đăng lại bài này chia sẻ với độc giả Phó nhòm tây bắc.


Hồi sinh 
Nguyễn Ngọc Dương
Ông Ngô Hữu Khôi hiện nay
Tôi biết ông Ngô Hữu Khôi khi ông là cán bộ của Công ty Ngoại thương cấp huyện, bấy giờ được gọi là Công ty Xuất nhập khẩu huyện Bảo Thắng. Ông là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam từ đầu những năm năm mươi. Năm 1973, khi thực hiện Chỉ thị của Trung ương về Bảo vệ Đảng, làm Trong sạch nội bộ, ông bị tố cáo năm 1946 từng tham gia Thanh niên Việt Nam Quốc dân đảng phản động. Thế là ông bị đưa ra khỏi Đảng, mặc dù ông theo Việt Minh từ năm 1946. Trong trận Phố Ràng (tháng 6 năm 1949), ông bị thương và sau này hưởng chế độ thương tật hạng 4.
Tháng 9 năm 1986, tôi được chuyển công tác từ Trường Đảng tỉnh Hoàng Liên Sơn về huyện Bảo Thắng để hợp lý hóa gia đình. Biết tôi được bổ sung vào cấp ủy huyện, làm Phó trưởng ban thường trực Ban Tổ chức Huyện ủy, nên một hôm ông Khôi đến nhà riêng bày tỏ sự tình. Ông đặt vấn đề: “Tôi biết anh mới ở tỉnh về, được phân công phụ trách công tác Bảo vệ chính trị nội bộ của Huyện ủy nên hy vọng anh có thể giúp tôi làm sáng tỏ nỗi oan mười ba năm qua được chăng?”... Và ông kể, tôi nghe...Một tối, hai tối, ba tối... Tôi vẫn kiên trì lắng nghe. Ông kể chuyện có duyên, khúc triết, rõ ràng, nhiều chi tiết cuộc sống từ thời tôi chưa ra đời được ông mô tả lại một cách sống động. Có hôm hai chú cháu ngồi đến khi có tiếng gà gáy sang canh...
Nay, tôi chép lại câu chuyện của ông như một kỷ niệm nhỏ trong đời công tác của mình.
Ông Khôi mở đầu câu chuyện: “Sự kiện này đối với tôi còn hơn cái chết, bởi nó bị “bức tử” về sinh mạng chính trị. Tôi theo Đảng từ lúc chưa biết Đảng là ai, chỉ thấy người ta nói Việt Minh, một tổ chức của Cụ Hồ, người đứng đầu Chính Phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nên tôi theo và đã trực tiếp tham gia chiến đấu nhiều trận, sẵn sàng hy sinh cả tính mạng. Rồi trong Trận Phố Ràng tôi bị thương...  Cho nên khi bị Tổ chức nghi ngờ, loại bỏ, tôi cảm thấy từ giờ phút đó tôi đã chết, chỉ còn lại cái thần xác vô hồn. Như vậy, tôi đã chết mười ba năm rồi, vâng, mười ba năm nhưng chưa chôn được, anh ạ!” Trong ánh đèn dầu vàng vọt giữa đêm khuya, tôi vẫn nhận ra đôi mắt ông đang cố nén xúc động khi chạm phải vết thương lòng còn rỉ máu. Thực ra, mười ba năm trước, nếu không có sự giám sát, động viên tích cực của người vợ hiền thì sau cái Quyết định nghiệt ngã ấy, ông đã về thế giới bên kia rồi, cả thể xác và nỗi oan  của ông đã vùi sâu ba tấc đất và vĩnh viễn không ai biết câu chuyện này.
Vào một đêm cuối thu khi tiết trời đã se lạnh, ông ngồi một mình trước ngọn đèn dầu leo lét trong ngôi nhà gỗ ẩn dưới những hàng nhãn cổ thụ, cạnh con sông Hồng nước cuộn lên, đỏ đọc như máu. Trên bàn là một ấm trà đặc, một bao Tam Đảo, một gói thuốc sâu đủ để hằng chục người có thể rủ nhau đi thăm Diêm Vương. Ông đã quyết định giờ phút hệ trọng nhất của đời mình để khỏi phải hằng ngày dằn vặt, khỏi phải “sống cũng như chết” theo quan niệm của ông!” Sự giằng co giữa sự sống và cái chết của ông lúc ấy là cuộc độc thoại với hai thế lực đối lập: một bên là người vợ hiền và chín đứa con, cả gái lẫn trai mơn mởn như những cây măng, cây tre đang vươn lên ấm bụi..., một bên là sự đau đớn về tinh thần đến tột cùng bởi nỗi oan khiên, không lối thoát, không thể giải thích, mọi đơn từ khiếu nại đều như hòn đất ném xuống ao bèo... Đêm ấy, đến độ 3 giờ sáng ông đã đốt gần hết bao Tam Đảo. “Hai thế lực” cứ giằng nhau từng tấc, từng li... Rồi hình ảnh đồng chí chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra huyện ủy dằn từng tiếng: “Anh làm tay sai cho bọn Việt Quốc, Việt Cách, lại âm mưu chui sâu, leo cao nhằm phá hoại sự nghiệp Cách mạng. Nhưng may, Đảng sáng suốt đã phát hiện sự dối trá của anh, nên chúng tôi buộc phải đưa anh ra khỏi Tổ chức. Anh phải nghiêm chỉnh chấp hành...” Lời kết tội của người đồng chí mỗi câu, mỗi chữ cứ như từng nhát dao đâm nát trái tim ông, trái tim đã mang dòng máu nóng bỏng trước mũi súng kẻ thù trong cuộc kháng chiến trường kỳ của Dân tộc... Ông nghĩ đến người vợ hiền, yêu nhau từ trong cảnh ngộ đi làm thuê, ở đợ, đầu gối, má kề mấy chục năm lên thác, xuống ghềnh. Rồi ông nhớ đến  từng gương mặt của chín người con: nào Phượng, Long, Khoa , nào Vân, Tuyên, Phi, nào Phương, Quyền, Quý, đứa nào cũng ngoan, cũng sáng sủa, học hành giỏi giang... Nhưng tất cả chúng phải chịu một “vết đen” trong lý lịch bởi có ông bố “phản động”! Và tương lai cuộc đời tất sẽ khó “ngóc đầu” lên được! Tình cảm của ông dành cho Đất nước, cho Dân tộc, cho Đảng và Bác Hồ, công lao của ông vào sinh ra tử trong cuộc kháng chiến trường kỳ...tất cả đều công cốc. Ông phải chết, ông không thể sống trong bối cảnh như thế! Trong lồng ngực ông tự dưng có một tảng đá dâng lên chẹn lại sự co bóp của con tim. Trước mắt ông dường như chỉ còn một màu vàng quạch của ngọn đèn hoa kỳ rọi xuống mặt chiếc bàn nước cũ kỹ... Ông từ từ với tay vào gói thuốc sâu, nghiêm trọng mở ra...
Bỗng ông giật mình bởi hai cánh tay vừa ấm vừa mềm ôm ghì lấy toàn thân. Gói thuốc sâu bị hất tung xuống nền nhà. Tiếng khóc của người đàn bà dội lên giữa đêm khuya, trong không gian tĩnh lặng đến rợn người. “Ông Khôi, sao ông lại thế?... Ông không được chết, ông không được chết! Ông phải sống. Ông không thương tôi và các con sao? Mà ông định chết đi để chôn vùi tất cả nỗi oan của mình, sự trong sáng của mình xuống ba tấc đất sao? Ông không muốn để cho đàn con của chúng ta hiểu sự thật về người cha của mình sao? Ông phải sống để tiếp tục khiếu nại, dù đến hơi thở cuối cùng vẫn phải tìm cách cho mọi người biết sự thật. Nếu Tổ chức không biết thì chính con cái chúng ta phải biết. Tôi van ông, ông không được chết!...”  Ông ngồi lặng đi, rồi bất thần quay lại ôm chặt bà và nói trong nước mắt: “Bà ơi, thế này thì tôi chết sao được!... Thôi tôi nghe bà, tôi cảm ơn bà đã làm tôi tỉnh ra rồi. Tôi sẽ sống”. Và ông nói thật với giọng cố pha chút hài hước nhưng cay đắng: “Vậy từ nay bà phải chăm sóc tôi để tôi có sức tiếp tục đi khiếu nại, đòi lại sự công bằng cho gia đình mình nha”...
Năm 1945, Việt Nam Quốc Dân Đảng (Việt Quốc), dưới sự hỗ trợ của quân đội Trung Hoa Dân quốc đã trở về Việt Nam, đánh chiếm Lào Cai và cướp chính quyền ở Sa Pa. Việt Nam Quốc dân đảng đã kiểm soát toàn bộ tỉnh Lào Cai. Sau cuộc chết đói hai triệu người ở đồng bằng Bắc Bộ tháng Ba năm 1945, cuộc sống ở quê Xứ Đoài (Sơn Tây) của Ngô Hữu Khôi vẫn rất khốn khổ. Người gầy gò, nhỏ thó nên mọi người gọi Khôi là “thằng Cặng”. Cặng lên Lào Cai để đi ở chăn trâu, cắt cỏ cho ông chú họ là Ngô Hữu T. tại xã Gia Phú huyện Bảo Thắng. Trong đoạn đời đi ở đợ này, Cặng đã gặp và yêu người con gái thùy mỵ, nết na, có tên Vượng, nhưng dân làng quen gọi cô là “Trố”, cũng là người ở giúp việc trong gia đình ông chú. Ông B.H, người cầm đầu Việt Nam Quốc dân đảng xã Gia Phú thường lui tới nhà ông T. Một hôm, ông B.H đã gọi Cặng lên yêu cầu tham gia vào một tổ chức gọi là Việt Nam Thanh niên Quốc Dân Đảng. Cặng chẳng hiểu gì nhưng cũng lờ mờ thấy đó là một công việc hệ trọng và nguy hiểm. Anh đã thẳng thắn từ chối với lý do: “Cháu mù chữ nên không biết làm gì đâu, chú cứ để cho cháu chăn trâu, cắt cỏ thôi!”...
Một buổi tối, Cặng và Trố hẹn nhau ra bãi sông Hồng tâm sự. Vừa gặp Cặng, Trố đã rất nghiêm trọng: “Anh Cặng, có chuyện này quan trọng lắm. Chiều nay, khi xách siêu nước sôi lên pha trà cho chú T và ông B.H, em thấy ông B.H nói là sẽ bắt anh, anh Hòa và anh Tuyên vào tổ chức gì ấy...Ông ấy còn bảo: “Nếu không nghe thì phải bắt!...”. Cặng choáng người khi nghe thấy tiếng “bắt”. Anh thật sự lo sợ... Nhìn dòng sông Hồng chảy xiết, Cặng bỗng nghĩ đến nước phải bỏ trốn về xuôi. Tuy phải xa người yêu, anh sẽ nhớ lắm đây, nhưng phải chạy trốn vụ bắt cóc này đã. Hôm sau anh bàn với Tuyên và Hòa, sẽ ăn trộm cái mảng nứa của ai đó buộc dưới bến đò để về quê. Cứ xuôi theo dòng nước, chắc chắn sẽ đến Hà Nội rồi từ đó tìm đường về Sơn Tây.
Cuộc trốn chạy bắt đầu. Bữa cơm tối, Trố nấu gia thêm gạo, giấu giếm mấy nắm cơm với muối vừng. Vào khoảng 9 giờ tối, bốn người ra bến đò. Nhưng Hòa bị sâu quảng nặng quá nên không thể đi được, đành ở lại. Cặng và Tuyên hì hục tháo trộm mảng nứa đang neo dưới một gốc cây. Bỗng có tiếng quát: “Đứa nào ăn trộm mảng kia!”, khiến cả bốn đều rụng rời chân tay. Thôi chết rồi!... Nhưng tiếng quát là một giọng đàn bà, có vẻ không gay gắt lắm. Nhận ra bà bán nước chè xanh ở bến, cả bốn quỳ xuống bãi cát kể rõ sự tình và xin bà che chở. Nghe xong, bà bảo: “Thôi, đi thì đi nhanh lên, ông T mà vớ được thì chúng mày rừ xương”. Cuộc chia tay thật ngắn ngủi, Cặng và Tuyên chống sào, buông neo, cái mảng nứa trôi vèo vèo, mất hút trên mặt sông nước lấp lóa, đang chảy xiết dưới ánh trăng lu.
Hai người ngồi trên cái mảng nứa mong manh, mặc cho số phận.Vài giờ sau, xuôi được khoảng hai chục cây số thì bỗng nghe tiếng quát rất đanh từ phía tả ngạn: “Ai kia? Vào bờ ngay, nếu không chúng tôi nổ súng!”. Thôi, thế là hết! Cả hai vội vàng bắt mảng dạt vào bờ. Có mấy người mang súng ống ra “đón”. Cặng và Tuyên run như dẽ. Theo lệnh của họ, hai chàng trai được dẫn vào nhà gặp một ông “quan lớn” có nước da trắng như con gái, trông nét mặt rất nghiêm. Cả hai quỳ sụp xuống, vái lấy vái để: “Chúng con đi làm ăn, nay về quê thăm gia đình, mong quan lớn tha tội chết”. “Ông quan” ấy bảo, các anh không phải quỳ thế, ngồi lên ghế để tôi hỏi chuyện...Mọi việc nhanh chóng được làm sáng tỏ và người ta cho biết, đây là quân đội Việt Minh, bộ đội cụ Hồ, đang có nhiệm vụ đánh bọn Việt Nam quốc dân Đảng để giải phóng quê hương, đất nước. “Các anh hãy dẫn đường cho chúng tôi và nếu đồng ý thì chúng tôi cho gia nhập vào quân đội Việt Minh”. Khỏi phải nói, Cặng và Tuyên đã sung sướng như thế nào trong bối cảnh này. Mãi sau, Ngô Hữu Khôi mới biết, chính cái “ông quan lớn” đẹp trai da trắng như con gái ấy là Trần Long, còn gọi Long Khánh, sau này làm Bí thư huyện ủy Bảo Thắng, Trưởng ty Công an Lào Cai rồi về Trung ương làm Cục trưởng Cục An ninh quốc gia, Bộ Công an... Khôi và Tuyên trở thành Bộ đội Cụ Hồ từ cái đêm “bị bắt” ấy. Đó là Đoàn quân “Vệ quốc đoàn” mà các anh thường nói đùa với nhau là “anh vệ túm”, vì người lính bấy giờ trong điều kiện đất nước còn quá nghèo nàn, gian khổ nên quần áo rách, có người phải lấy dây chuối túm lại... Ngô Hữu Khôi đã quay trở lại đất Gia Phú, tham gia quét sạch tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ông đã tham gia trận Phố Ràng, đánh đồn Phố Lu, tiến tới giải phóng hoàn toàn Lào Cai vào cuối năm 1950, trở thành đảng viên Đảng Lao động Việt Nam. Sau này ông xuất ngũ về địa phương, làm Bí thư, kiêm chủ tịch Ủy ban xã Thái Niên, đặc phái viên Huyện ủy Bảo Thắng rồi cán bộ Ngoại thương...
Nhưng năm 1973, ông Ngô Hữu Khôi bị chính ông B.H, người cầm đầu Việt Nam Quốc dân đảng ở Gia Phú tố cáo ông là Thanh niên Việt Quốc...Căn cứ vào lá đơn này, tổ chức Đảng ở địa phương đã quyết định đưa ông ra khỏi Đảng để “làm trong sạch nội bộ”. Mười ba năm trời đằng đẵng, ông Khôi đã viết hàng chục lá đơn khiếu nại, thu thập ý kiến của các nhân chứng, đặc biệt là xác nhận bằng bút tích của đồng chí Trần Long, Cục trưởng Cục An ninh Quốc gia; xác nhận bằng bút tích của đồng chí Nguyễn Tài Tuyên, trưởng Ty Tài chính tỉnh Hà Sơn Bình, người cùng ông trộm mảng nứa trốn chạy trên sông Hồng ngày nào; xác nhận của bà cụ bán nước chè ở bến đò Gia Phú, nay đã gần đất xa giời và nhiều nhân chứng khác. Tập hồ sơ xin giải oan của ông Khôi có tới mười tám chữ ký của những nhân chứng xác nhận ông không phải là Thanh niên Quốc dân đảng thay vì cho một tờ đơn tố cáo của chính trùm Việt Nam Quốc dân đảng ở địa phương. Thế mới biết, trên đời này mắc sai lầm thì quá dễ dàng, nhưng sửa chữa sai lầm có bao giờ đơn giản! Không ít vụ việc “chìm xuồng”, khiến người trong cuộc phải vĩnh viễn đem theo nỗi oan khuất về thế giới bên kia. Cũng có trường hợp người bị kết tội oan sau khi đã qua hằng chục cái giỗ mới lại may mắn được hóa giải. Sự việc của ông Ngô Hữu Khôi đã kéo dài mười ba năm, ông  đã cơm đùm, cơm vắt, lặn lội gõ hết các “cửa” có thể gõ ở các cấp. Ông đã từng ngồi chờ trước cổng số 10 Nguyễn Cảnh Chân (Hà Nội) để mong gặp được cán bộ cao cấp của Đảng, xin giải oan... Đến năm 1986, tập hồ sơ bản gốc dính đầy mồ hôi của ông được chuyển đến tay tôi. Tôi đã trịnh trọng ký nhận nó như nhận trách nhiệm bảo toàn sinh mạng cho một con người...
Sau khi nghiên cứu kỹ càng, tỉ mỉ từng chi tiết sự việc, tôi đích thân viết tờ trình ra Hội nghị Ban Thường vụ Huyện ủy Bảo Thắng. Tập thể Ban Thường vụ nhận thấy, không chỉ dừng lại ở lý lẽ, ở sự minh bạch của sự việc thông qua các nhân chứng có uy tín, mà còn xét đến phương diện tình người, tình đồng chí trong Đảng. Ban Thường vụ đã nhất trí cao với quan điểm: Sai thì phải sửa dù sự việc đã kéo dài quá lâu. Đảng ta quyết không sợ khuyết điểm. Chính sự nhận ra sai lầm, biết sửa chữa sai lầm sẽ là hành vi chứng minh bản lĩnh chính trị của Đảng, tạo thêm niềm tin yêu của đảng viên, của quần chúng nhân nhân đối với Đảng. Cuối cùng, 11 trên 11 Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy đã biểu quyết đề nghị Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hoàng Liên Sơn khôi phục đảng tịch cho đồng chí Ngô Hữu Khôi. Nghị quyết này đã được chuyển lên Ban Thường vụ tỉnh ủy qua Ban Tổ chức. Một tuần lễ sau, tại Hội nghị toàn thể Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hoàng Liên Sơn đã có Nghị quyết: Khôi phục Đảng tịch cho đồng chí Ngô Hữu Khôi, đảng viên thuộc Đảng bộ Phố Lu, huyện Bảo Thắng, tuổi Đảng được tính liên tục từ ngày công nhận chính thức, nhưng chỉ đóng đảng phí kể từ ngày công bố Quyết định tại chi bộ.
Tại Hội nghị Chi bộ Phú Long 1, thị trấn Phố Lu, sau khi đại diện Ban Tổ chức Huyện ủy công bố Quyết định của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, ông Ngô Hữu Khôi đã khóc òa lên và nức nở như một đứa trẻ bị mẹ đánh đòn oan. Tiếng khóc của ông khiến hằng chục đảng viên trong chi bộ đều lặng đi và ngấn lệ. Có lẽ mọi người đều hiểu, đằng sau tiếng khóc đó là một niềm vui tột đỉnh xen lẫn sự hờn giận, chất chứa cảm xúc của một người như vừa từ cõi chết trở về.  

                                                                           27/07/2012
                                                                               N.N.D



Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

5044. Màu đỏ Artek

5485. Vì sao nước Đức hùng mạnh? (Kỳ 1)

6272. Kịch tính vụ kit Việt Á ngày càng cao.