GS. HOÀNG TỤY: GÓP Ý VỀ HIẾN PHÁP
GÓP Ý VỀ HIẾN PHÁP
Hoàng Tụy
Phát biểu về các vấn đề kinh tế xã hội trong Dự thảo sửa
đổi Hiến pháp 1992 tại cuộc tọa đàm ngày 15/03/2013 do Viện Nghiên cứu Lập pháp
tổ chức.
Tôi rất hoan nghênh chủ trương của Quốc hội kéo dài thời
gian lấy ý kiến nhân dân về Hiến pháp đến hết tháng 9, đồng thời tổ chức tọa
đàm rộng rãi trong giới trí thức xung quanh những vấn đề lớn đang có nhiều
tranh cãi.
Song sẽ là tốt hơn nếu trước đó không có những quy kết
tùy tiện đối với những ý kiến trái chiều, dù những ý kiến này thật ra rất xây
dựng và xuất phát từ những công dân chỉ có một tội là thiết tha với đất nước và
ngày đêm trăn trở vì sự nghiệp độc lập, thống nhất của Tổ quốc và tự do, hạnh
phúc của nhân dân – hay theo cách nói sau này: dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh – một sự nghiệp mà vì nó biết bao người con ưu tú của
đất nước đã ngã xuống và cả dân tộc đã chịu đựng biết bao hy sinh, nhọc nhằn
trong mấy chục năm chiến tranh tàn khốc mà đến nay phần lớn mục tiêu vẫn đang
còn ở phía trước. Sẽ là tôt hơn nữa nếu Ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp chưa vội
tuyên bố bảo lưu tất cả những điểm chính, vì như thế khác nào thừa nhận việc hô
hào nhân dân góp ý chỉ là hình thức, và bao nhiêu thời gian, của cải, công sức,
của dân bỏ ra để góp ý chỉ là một sự lãng phí vô trách nhiệm.
Trước tình hình đó, những ai trăn trở về vận nước nguy
vong làm sao không đắn đo suy nghĩ được. Tôi nghĩ vào lúc này, khi kinh tế lụn
bại, xã hội nhiễu nhương, tham nhũng hoành hành, bờ cõi biên cương hải đảo đang
bị uy hiếp nghiêm trọng, thì mọi người tử tế nên dẹp mọi suy tính cá nhân, cùng
nhau vận dụng trí tuệ suy nghĩ tìm một lối ra ít đau đớn nhất cho dân tộc thay
vì cố thủ trong những thành kiến, định kiến đã lỗi thời.
Trên tinh thần đó, tôi xin phát biểu thẳng thắn một số ý
kiến về đề tài tọa đàm hôm nay, chủ yếu tập trung về hai Điều 54 và 57 trong
bản Dự thảo.
Nói vắn tắt, đây thực chất cũng chỉ là những ý kiến đã được
trình bày cô đọng nhưng khá đầy đủ trong bản Kiến nghị bảy điểm về sửa đổi Hiến
pháp 1992 của 72 công dân.
1. Điều 54, Mục 1 ghi: “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế”. Xin đề nghị bỏ hẳn cụm từ “định hướng xã hội chủ
nghĩa” vì nội hàm rất mù mờ mà theo kinh nghiệm thực tế nhiều năm qua chỉ là
cái cớ để hạn chế, cản trở, thu hẹp thị trường, khiến nhiều nước đến nay vẫn
chưa chịu công nhận kinh tế thị trường cho ta. Có lẽ vì cái định hướng xã hội
chủ nghĩa đó nên mới cố bám chặt cái chủ trương lấy kinh tế nhà nước làm chủ
đạo, dốc hết vốn liếng tiền của, tài nguyên trí lực vào đó, chẳng những không
có hiệu quả, mà còn cản trở sự phát triển lành mạnh của đất nước, làm cho đất
nước kiệt quệ, chồng chất nợ nần không biết bao giờ mới trả hết được, lại gây
ra biết bao tệ nạn trong xã hội. Có thể nói mọi tai ương bắt nguồn từ cái nhận
thức sai lầm về chủ nghĩa xã hội theo kiểu giáo điều Liên Xô cũ. Giờ đây bản Dự
thảo đã mạnh dạn từ bỏ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, đó là một bước
tiến đáng kể, thế thì còn lý do gì bám giữ cái đuôi “định hướng xã hội chủ
nghĩa” cho rắc rối.
Lần lại lịch sử có thể thấy rằng trước đây, theo lý luận
chủ nghĩa xã hội của Liên Xô cũ (cũng là lý luận chính thống của Đảng Cộng sản
ViệtNamlúc đó), kinh tế xã hội chủ nghĩa là kinh tế kế hoạch hóa tập trung,
không chấp nhận cơ chế thị trường. Cho nên năm 1968 khi nhà lãnh đạo Tiệp Khắc
Dubcek chủ trương sử dụng cơ chế thị trường trong chủ nghĩa xã hội thì lý
thuyết “chủ nghĩa xã hội thị trường” ấy của Dubcek đã ngay lập tức bị Liên Xô
và cả phe xã hội chủ nghĩa, gồm cả Việt Nam, lên án là lý thuyết phản động nguy
hiểm. Đến mức để cứu chủ nghĩa xã hội ở Tiệp Khắc, Liên xô đã đưa quân đội vào
Tiệp Khắc lật đổ Dubcek, và cuộc can thiệp quân sự tàn bạo ấy đã được ViệtNamvà
cả phe xã hội chủ nghĩa lên tiếng ủng hộ mạnh mẽ. Thế mà chưa đầy hai mươi năm
sau đó, để vượt qua khủng hoảng kinh tế xã hội giữa thập kỷ 80 thế kỷ trước,
chúng ta đã chấp nhận chính cái kinh tế thị trường trước đây đã từng bị phê
phán kịch liệt và, như để tự trấn an, cái đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa”
được gán thêm vào, tương tự như cái tên chủ nghĩa xã hội thị trường của Dubcek.
Qua đó thấy rõ ngay trong nội bộ Đảng và các nhà cầm
quyền nhận thức về chủ nghĩa xã hội cũng đã thay đổi ngược hẳn lại, ngay ở
những nội dung cơ bản. Gì thì gì, thực tiễn chứ không phải giáo điều mới có thể
có tiếng nói quyết định cuối cùng cho chính sách và hành động của một đảng thật
sự vì dân.
Cũng có người cho rằng cái đuôi “định hướng xã hội chủ
nghĩa” là để hạn chế những mặt trái của kinh tế thị trường. Thật ra kinh tế thị
trường chẳng có mặt trái nào cả, những tiêu cực phát sinh chẳng qua là do hiểu
và thực hiện không đúng kinh tế thị trường. Một xã hội muốn phát triển lành
mạnh, bền vững, thì cùng với Nhà nước pháp quyền, và kinh tế thị trường, còn
rất cần một nhân tố nữa là xã hội dân sự. Chính cái xã hội dân sự này giúp điều
chỉnh những lệch lạc tự phát khi vận hành bộ máy nhà nước và kinh tế thị
trường. Một khi xã hội dân sự còn rất yếu kém, chẳng những không được khuyến
khích phát triển, trái lại còn bị xem là kế sách của các thế lực thù địch đang
âm mưu thực hiện “diễn biến hòa bình” thì bộ máy nhà nước dễ dàng xa dân, quên
dân, đối lập với dân, và kinh tế thị trường cũng dễ dàng bị méo mó, xuyên tạc,
nhất là về mặt đạo đức xã hội. Cho nên bàn về kinh tế lại không thể không quay
về quyền con người và quyền công dân là những quyền đương nhiên phải được hiến
định minh bạch và triệt để tôn trọng thì mới có thể có xã hội dân sự phát triển.
2. Điều 57 ghi: “Đất đai, …, thuộc sở hữu toàn dân do
Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý theo quy định của pháp luật”.
Dù muốn biện minh cách gì cũng không thể phủ nhận đây là điểm mắc mứu quan
trọng đã gây nên biết bao thảm cảnh đau lòng những năm qua, đẩy người dân hiền
lành đến chỗ có lúc không chịu nổi, phải đứng lên chống lại chính quyền địa
phương để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình bỗng nhiên bị xâm phạm, bị tước
đoạt không phải vì lợi ích của đất nước mà chẳng qua vì lòng tham ích kỷ của
quan chức các cấp, nhân danh Nhà nước bắt tay với nhiều tư nhân, doanh nghiệp
để trục lợi, hại dân. Đã có quá nhiều ý kiến đề nghị nên thay đổi quy định này,
dựa trên những cơ sở pháp lý vững chắc. Bản Kiến nghị của 72 công dân cũng đã
nói rõ vì sao quy định này là một trong những điều bất công tệ hại nhất đã làm
giảm nghiêm trọng niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Vì vậy có lẽ không cần
thiết phải nói thêm gì nữa về tác hại của một chủ trương mà thực tế đau buồn
hai mươi năm qua đã hoàn toàn bác bỏ.
Tuy nhiên giở lại lịch sử có thể soi sáng thêm bản chất
vấn đề. Quan điểm đất đai thuộc sở hữu toàn dân xuất hiện đầu tiên trong Hiến
pháp 1980 chỉ là sao chép theo Hiến pháp Liên Xô cũ và do đó được cho là dựa
theo lý luận chính thống xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hồi đó, sau hàng loạt biểu
hiện tráo trở của Trung Quốc và nhất là sau cuộc chiến xâm lược của họ năm
1979, Liên Xô đối với Việt Nam trở thành nhà nước xã hội chủ nghĩa mẫu mực.
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa đó, toàn thể nông thôn đã hợp tác hóa từ lâu, đất
đai thuộc sở hữu toàn dân là đương nhiên. Miền Bắc nước ta khi ấy cũng đã hợp
tác hóa rồi, MiềnNamthì đang trên con đường hợp tác hóa, theo khẩu hiệu cả nước
tiến lên chủ nghĩa xã hộị. Trong khung cảnh quốc tế và nội tình đó, sự xuất
hiện quan điểm đất đai thuộc sở hữu toàn dân trong Hiến pháp cũng là dễ hiểu.
Không ai, kể cả những người cấp tiến trong giới cầm quyền lúc bấy giờ, có thể
tiên lượng được hết những hệ lụy gì của quan điểm đó khi tình hình thay đổi.
Những hệ lụy này chỉ mới dần dần hiện rõ và trở nên ngày
càng trầm trọng trong tiến trình đổi mới. Một mặt, hợp tác xã ở Miền Bắc dần
dần tan rã, còn ở MiềnNamkhông còn ai dám nghĩ đến hợp tác hóa như ở Miền Bắc
trước kia nữa. Mặt khác, đội ngũ cán bộ quan chức ngày càng tha hóa, biến chất,
một bộ phận không nhỏ mà ngày càng lớn dần trở nên hư hỏng hoàn toàn. Trong
tình hình mới đó, những quy định luật pháp lỏng lẻo đi liền với quyền sở hữu
toàn dân về đất đai trở thành chỗ dựa pháp lý lý tưởng để các quan chức mọi cấp
ra sức trục lợi trên lưng nông dân nghèo khổ. Hệ lụy tất yếu là đấu tranh,
khiếu kiện ngày càng lan rộng, ban đầu tự phát càng về sau càng có ý thức. Hết
Tiên Lãng đến Văn Giang và nhiều nơi khác, mà đó chỉ mới là phần nổi của tảng
băng chìm. Rõ ràng quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân trước đây có vẻ đương
nhiên trong chế độ toàn nông thôn hợp tác hóa nay đã trở nên mâu thuẫn gay gắt
với những đổi mới ở nông thôn. Nó hoàn toàn không phù hợp nữa, chí ít cũng
không hợp lòng dân ở giai đoạn này và trong tình hình sa sút đạo đức nghiêm
trọng của cả hệ thống chính trị rất dễ dàng bị lợi dụng để đè nén, áp bức,
nhũng nhiễu dân mà vẫn không bị pháp luật trừng trị.
Bài học rút ra từ những chuyện bàn ở trên là không có,
không bao giờ có thể có, một lý thuyết hoàn thiện về chủ nghĩa xã hội để rồi cứ
thế mãi mãi áp dụng thành công. Mục tiêu phấn đấu của toàn thể cộng đồng dân
tộc Việt Nam và cũng là mục tiêu phấn đấu cao cả nhất của một đảng thật sự vì
dân vì nước chỉ có thể là: dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh, theo những tiêu chí phổ quát của nhân loại đương thời. Chỉ có trên quan
điểm đó mới có thể có một Hiến pháp quy tụ, đoàn kết được mọi tầng lớp nhân
dân, thực hiện hòa giải dân tộc, vượt qua khủng hoảng và tình hình nguy cấp
hiện tại để tiến lên một giai đoạn phát triển mới đầy hứa hẹn của đất nước.
H.T.
Theo Tễu blog
Nhận xét