ĐÀO TIẾN THI: THƯ NGỎ GỬI ANH NGUYỄN THANH TÚ
PN: Anh PGS.TS.nhà văn Nguyễn Thanh Tú mới có bài viết: Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trong Hiến pháp là hợp lý, hợp tình, đăng trên báo Quân đội nhân dân. Sau bài viết có rất nhiều ý kiến phản ứng của cư dân mạng. Những ý kiến khác nhau trong quá trình tranh luận là bình thường. Tuy nhiên trong bài viết này anh Tú còn "nặng lời" nếu không nói là xúc phạm cả những vị bậc thầy của mình, khiến thạc sĩ Đào Tiến Thi phải viết lá thư ngỏ này tới anh Tú. Bài đăng trên Tễu blog sáng nay, 20/02/2013. Xin trân trọng giới thiệu quý vị độc giả PNTB.
TIẾNG NÓI THÀNH THỰC HAY TIẾNG GỌI CỦA SỔ HƯU?
Đào Tiến Thi
Đào Tiến Thi
Kính gửi anh Nguyễn Thanh Tú,
PGS.TS, nhà văn
Vì cũng có chút biết anh nên xin
phép xưng hô thân mật như trên. Chả là tôi và anh đã cùng dự lớp bồi dưỡng về
lý luận, phê bình văn học hồi hè 2008 do Hội Nhà văn mở. Thời gian khoảng hơn
hai tháng và học gần như liên tục các ngày nên nó cũng không đến nỗi quá ít để
chúng ta biết nhau. Hơn nữa trong thời gian học, lớp có tổ chức một số cuộc hội
thảo và một số lần gọi là “đi thực tế”, cho nên tôi và anh đã từng nói chuyện
với nhau, từng được (hoặc phải) nghe ý kiến của nhau trong các hội thảo.
Dáng vẻ anh hiền lành, nho nhã. Anh kém tuổi tôi nên xưng hô, “anh – em”
rất lễ độ. Anh giống một thầy giáo hơn là một người làm báo (tạp chí Văn nghệ
quân đội). Cho nên ấn tượng về anh tuy không có gì đặc sắc nhưng tôi cũng có
đôi chút thiện cảm.
Nhưng chính vì một chút thiện cảm
trên mà một điều bất ngờ kinh khủng đã đến với tôi khi đọc bài của anh trên báo
Quân đội nhân dân: Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trong Hiến pháp là
hợp lý, hợp tình.
Điều sốc đầu tiên là giọng
điệu của người viết (anh là dân lý luận, phê bình văn học nên thừa
hiểu giọng điệu quan trọng như thế nào trong một tác phẩm). Anh viết: “Có những
kẻ cơ hội dựa vào một số sai lầm của Đảng ta để kêu gọi
sửa đổi Điều 4 Hiến pháp (ĐTT nhấn mạnh) đòi thay đổi vị trí lãnh
đạo cách mạng của Đảng”. Tuy ngôn từ không chỉ đích danh “những kẻ cơ hội”,
nhưng còn ai khác ngoài những người đã ký bản kiến nghị – gọi là “Kiến
nghị 72” – gửi Quốc hội. Chưa kể đến nay hơn 4000 người ký, trong đó có hàng
trăm người danh giá, chỉ tính riêng trong số 72 người “ký tươi” đợt 1 đã có
hàng chục vị nhân sỹ, trí thức khả kính. Nếu chỉ tính riêng trong giới văn
chương thôi, nhiều vị về tuổi tác là bậc cha chú, bậc anh chị của anh và tôi,
về học vấn thì sự uyên thâm của họ là những bậc thầy, bậc đàn anh của anh và
tôi. Đó là những người như nhà văn Nguyên Ngọc, GS. Trần Đình Sử, GS. Nguyễn
Huệ Chi, PGS. Phạm Vĩnh Cư, nhà văn – nhà giáo Phạm Toàn, nhà văn Nguyễn Đắc
Xuân, nhà văn Tô Nhuận Vỹ, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân, nhà nghiên cứu Phạm
Xuân Nguyên,... Trong số này, GS. Trần Đình Sử còn là người thầy trực tiếp
hướng dẫn tiến sỹ cho anh, người thầy mà anh có dùng hết cuộc đời còn lại để
học, tôi nghĩ cũng không có được sự uyên bác như thầy.
Điều sốc thứ hai với tôi, là vấn đề
kỹ thuật trong bài viết của anh. Tôi không thể hiểu nổi một người có học hành,
mang những chức danh đẹp như thế mà viết nó lại luộm thuộm như thế. Không có
biện bác, không có chứng minh, gần như gặp đâu nói đó, không rõ mạch nào ra mạch
nào. Ví dụ như mục 1 – Đảng kế tục lịch sử và làm nên lịch sử –
nhưng phần triển khai anh lại huyên thuyên về tội ác của thực dân Pháp và các
truyền thuyết về lịch sử, chẳng dính dáng đến cái tiêu đề đã nêu, chẳng cho
người đọc thấy Đảng “kế tục lịch sử” ở chỗ nào và “làm nên lịch sử” ở chỗ nào.
Thực ra làm cái này rất dễ, vốn là những bài rất quen thuộc, học trò cấp 3 vẫn
làm làu làu bấy lâu nay. Này nhé, Đảng kế tục lịch sử, vì Đảng tiếp nối ngọn cờ
giải phóng dân tộc của các phong trào trước đó, như Cần vương của các văn thân,
sỹ phu, như phong trào vận động dân tộc và dân chủ đầu thế kỷ XX của các cụ chí
sỹ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh,... Này nhé, Đảng làm nên lịch sử vì đã lãnh
đạo nhân dân đánh đổ thực dân và phong kiến trong Cách mạng tháng Tám (1945),
rồi lại liên tiếp lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống xâm lược Pháp (1946 –
1954), Mỹ (1955 – 1975), Trung Cộng (1979), v.v..
Nhưng thôi, tôi bỏ qua hầu hết các
lỗi kỹ thuật đó để trao đổi những nội dung và những thông điệp chính mà anh gửi
gắm qua bài viết. Vì tôi là một trong 72 người “ký tươi” đợt đầu bản Kiến nghị
72, cho nên từ đây xin được đối thoại với anh ở ngôi thứ nhất – chúng tôi, chứ
không phải ngôi thứ ba như phần đầu, khi trao đổi về mặt đạo lý trong mối quan
hệ giữa anh với một số vị tên tuổi trong số 72 người.
Về nội dung thứ nhất – Đảng kế tục lịch sử và
làm nên lịch sử
Trong mục này, trước hết anh kể tội
thực dân Pháp trong thời kỳ đô hộ Việt Nam . Những tội của thực dân (đầu
độc bằng rượu cồn, bóc lột bằng sưu thuế,...) anh nêu na ná như trong Tuyên
ngôn độc lập, học trò đã qua cấp 3 gần như thuộc lòng, cho nên thực ra là thừa
và từ trước cũng như bây giờ, chả có ai phủ định những điều đó cả. Nhưng mục
đích anh nêu thể hiện ở mấy câu cuối đoạn này:
“Có thể nói trong lịch sử hàng nghìn
năm chưa bao giờ đất nước vẻ vang “con Rồng cháu Tiên” lại rơi vào thảm cảnh
khốn cùng như thế. Để cứu một dân tộc đang bị tàn lụi vì bị đầu độc, đang bị
chết đói bởi sự dã man thú vật của kẻ thù, lại có một con đường “thỏa hiệp” với
chính kẻ đang hút máu nhân dân mình ư? Và kẻ thù xâm lược ấy chỉ có một mục
đích là hút máu nhân dân mình, thì thử hỏi “thỏa hiệp” với ai và bằng cách nào?
Đúng là một lối nghĩ ảo tưởng, mơ hồ!”.
À, thì ra anh nghĩ chúng tôi đang
muốn đổi chế độ XHCN hiện nay để lấy chế độ thực dân cách đây từ 70 – 150 năm
trước.
Không biết “duyên do” nào mà anh lại
có suy nghĩ như thế. Vì ít ra một em học sinh hết cấp 3 cũng đã có ít nhiều khả
năng phân biệt 3 điều sau:
- Chủ nghĩa thực dân
Pháp khác với văn hoá, văn minh Pháp.
- Chính sách thực dân của nhà nước
Pháp thi hành ở các nước thuộc địa khác với chính thể Cộng hoà Pháp (ở chính
quốc) với tôn chỉ “Tự do – Bình đẳng – Bác ái” mà nhân dân Pháp liên tục hoàn
thiện nó suốt từ Cách mạng 1789 đến nay.
- Nước Pháp thời trước, cách đây 30,
50, 70, 100, 150,... năm khác với nước Pháp bây giờ.
Đối với nước Mỹ, Nhật hay thế giới
phương Tây nói chung tình hình cũng tương tự như vậy. Cho nên nền dân chủ của
Pháp, Mỹ, Đức, Anh,... đến nay vẫn là những nền dân chủ mà nhân loại phải
ngưỡng mộ.
Cũng chính vì nhận thức như thế nên
ngay từ đầu thế kỷ XX, các chí sỹ cách mạng lỗi lạc như Phan Bội Châu, Phan
Châu Trinh, với hoài bão giải phóng dân tộc mãnh liệt, lại chính là người vận
động “Tân học”, tức là học theo phương Tây, cụ thể là học theo nước Pháp, người
Pháp một cách tích cực nhất. Và chính bản thân hai cụ Phan – một mặt là nạn
nhân đàn áp của chủ nghĩa thực dân Pháp, mặt khác, chính những người Pháp dân
chủ, tiến bộ lại ra sức ủng hộ và cứu các cụ. Cụ Phan Châu Trinh bị triều đình
Huế kết tội chung thân đày đi Côn Đảo, thế nhưng chỉ ba năm sau do sự bênh vực
của Hội Nhân quyền Pháp mà cụ được ra tù và người Pháp đón hẳn cụ sang Pháp ở
(có chế độ trợ cấp của chính phủ Pháp). Cụ Phan Bội Châu, người dính líu vào
hàng chục cuộc bạo động chống Pháp, ấy thế mà cuối cùng họ lại tha bổng. (Còn
các hoạt động “tuyên truyền chống nhà nước Pháp”, thì chính quyền Pháp không
coi là tội[1]).
Chính cụ Phan cũng thừa nhận nếu giao cụ cho toà án Nam triều (triều đình Huế) thì cụ
đã không thoát khỏi án tử hình và do đó cụ hết lời cảm ơn chính phủ Pháp. Lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc khi đi tìm đường cứu nước cũng đến Pháp, nhờ sự giúp đỡ của
người Pháp.
Phần tiếp theo trong mục 1, anh nói
về Đảng biết nhân nhượng: “Những người cộng sản lãnh đạo dân tộc ta làm
nên kỳ tích lịch sử năm 1945 không hề thỏa hiệp với kẻ thù nhưng rất biết nhân
nhượng với kẻ thù vì mục đích hòa bình. Hãy đọc lại Lời kêu gọi Toàn quốc kháng
chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh...”. Sau đó anh dẫn ra các anh hùng của
Việt Nam
theo dã sử được nhân dân thờ phụng. Như trên đã nói, đó là một sự lạc đề trong
lập luận. Nhưng nếu cố khớp 2 ý trên với đoạn kết thì sẽ đọc được ý anh muốn
nói gì. Anh viết: “Có thể nói phẩm chất anh hùng quyết không bao giờ
chịu nô lệ cho kẻ ngoại bang có ở trong máu của mỗi người Việt, nhất là mỗi khi
có kẻ thù xâm lăng thì phẩm chất ấy càng trỗi dậy mạnh mẽ”.
À, thì ra tuy đang bàn về hiến pháp
nhưng anh “tạt ngang” để thanh minh cho một bộ phận cầm quyền hiện nay đang
nhân nhượng chủ quyền quốc gia cho Trung Cộng. Nhưng lý lẽ thanh minh của anh
không có sức thuyết phục, bởi vì không thể lấy cái anh hùng của người xưa để
bào chữa cho cái hèn hôm nay. Và sự nhân nhượng của Cụ Hồ hồi ấy cũng khác hẳn
hôm nay. Cụ Hồ nhân nhượng nhưng không bắt nước ta phụ thuộc vào Pháp. Nhân
nhượng nhưng không để mất biển, mất đảo. Nhân nhượng Pháp nhưng không đàn áp
người yêu nước chống Pháp... Vả lại, cái anh hùng hồi 1945 – 1946 cũng đã thuộc
về thế hệ trước. Ngay cả những người anh hùng trong chống Mỹ, chống Tàu Cộng
hôm nay còn sống khoẻ mạnh, nhiều người cũng đã trở nên hèn rồi. Vì trong khi
chúng tôi đề cao quá khứ dân tộc thì họ tìm cách dập tắt đi. Bia ghi công của
Quang Trung đại phá quân Thanh (do chính Cụ Hồ viết) ở Nghệ An bị người ta
thay. May nhờ sự đấu tranh quyết liệt của những người anh cho là “cơ hội”
(trong đó phải kể đến công anh Phạm Xuân Nguyên) nên gần đây người ta mới khôi
phục lại văn bia do Cụ Hồ viết. Và mới đây nhất (17-2-2013), họ dứt khoát không
cho chúng tôi tưởng niệm liệt sỹ chống Trung Cộng hồi 1979, chẳng lẽ anh không
biết sao?
Về nội dung thứ hai - Bài
học “Quốc trị, thiên hạ mới bình”
Câu“Quốc trị, thiên hạ mới bình” anh
dẫn của Cụ Hồ, mà Cụ Hồ lại dẫn của Khổng Tử, với lời giải thích của anh –“Mỗi
quốc gia hãy thật yên ổn đã, thì tự nhiên thế giới sẽ hòa bình”, tôi chưa
có điều kiện kiểm tra lại có đúng không, nhưng nếu đúng thì anh phải đem “dạy”
cho nhà cầm quyền Trung Cộng chứ? Bởi cứ khi nội tình họ không yên là họ tìm
cách bành trướng ra bên ngoài mạnh hơn. Và cũng có khi họ giải quyết được vấn
đề. Ví dụ cuộc “Dạy cho Việt Nam một bài học” năm 1979 đã giúp Đặng Tiểu Bình
lấy lại được tinh thần Trung Quốc sau cơn đại khủng hoảng do Cách mạng văn hoá
đem lại.
Đoạn tiếp sau anh viết: “Bản
chất xâm lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động là không bao giờ
thay đổi. Muốn vậy chúng sẽ tìm mọi cách gây mất ổn định chính trị để từ đó tạo
cớ can thiệp hoặc làm suy yếu để dễ bề xâm lấn, tiến đến thôn tính. Do vậy đối
với tình hình cách mạng nước ta hiện nay mục tiêu cơ bản, bao trùm là giữ vững
ổn định chính trị để phát triển đất nước”.
Điều đó thì đúng quá rồi. Có điều
phải xác định đâu là đế quốc và không phải đế quốc nào cũng là kẻ thù. Trong
lịch sử, Đảng CSVN đã từng xác định rất đúng kẻ thù. Ví dụ giai đoạn 1941 –
1945, nước ta bị cả Pháp và Nhật đô hộ, Đảng kêu gọi người Pháp đứng về phía
Việt minh để chống Nhật. Hồi chống Mỹ, Đảng tranh thủ sự ủng hộ của người Pháp
để chống Mỹ. Hồi 1978 – 1988, Đảng xác định kẻ thù nguy hiểm trực tiếp là Trung
Cộng. Còn hiện nay, kẻ thù nguy hiểm trực tiếp (và có lẽ là duy nhất), vẫn là
đế quốc Trung Cộng. Thế nhưng Đảng lại coi là bạn, thậm chí bạn thân nhất, thế
là xác định sai. Nhà cầm quyền Trung Cộng được cái thế “ông anh”, cứ lấy dần
chủ quyền và lãnh thổ của ta. Cho nên điều trên lẽ ra anh phải đem “dạy” cho
Đảng CSVN chứ không phải chúng tôi.
Anh viết tiếp: “Chỉ có Đảng
ta chứ không thể có bất kỳ một lực lượng chính trị nào khác gánh vác thay, làm
thay sứ mệnh cực kỳ hệ trọng này. Và cũng không thể có bất kỳ một lực lượng
chính trị nào khác có đủ uy tín, đủ năng lực, đủ vai trò để làm công việc lớn
lao đó”.
Anh nêu điều này như một tiên đề, mà
lẽ ra anh phải chứng minh mới đúng. Nhưng chắc đây không phải “sơ xuất kỹ
thuật” mà vì anh không thể nào chứng minh nổi. Vì đến đứa trẻ con cũng biết,
nước Mỹ, nước Anh, nước Pháp, nước Đức, nước Nhật,... không có Đảng mà vẫn là
cường quốc; ngay nước Thái, nước Singapore,... chưa lâu trước đây lạc hậu
hơn ta nay lại gấp ta hàng chục lần. Còn nước ta, Bắc Triều, Cu Ba, Lào có Đảng
mà sao vẫn là “nhược tiểu”. Trung Quốc mạnh nhưng nhân dân cũng khổ.
Về nội dung thứ 3 – Đảng lãnh đạo thực
hiện mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"
Mục tiêu "Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" thì đẹp quá rồi,
có ai phản đối gì đâu. Vấn đề là làm thế nào để đạt mục tiêu đó. Và chính điều
này liên quan đến hiến pháp. Hiến pháp hiện giờ cản trở mục tiêu trên và một
trong những điều cản trở lớn nhất là điều 4. Điều 4 làm cho đất nước không có
dân chủ và chính nó làm tha hoá Đảng CSVN. Vấn đề này nhiều người đã phân tích
nên tôi không nói lại hoặc là sẽ nói vào một dịp khác. Nhưng tôi phải phân tích
cách hiểu sai của anh khi anh viết:
“Có những kẻ cơ hội dựa vào một số
sai lầm của Đảng ta để kêu gọi sửa đổi Điều 4 Hiến pháp đòi thay đổi vị trí
lãnh đạo cách mạng của Đảng. Phải thấy một chân lý giản đơn rằng, con người ta
ai cũng có sai lầm, có làm việc là có sai lầm, có cái sai mới dẫn đến có cái
đúng. Với quan niệm rộng lượng mà triết lý, cụ thể mà phổ quát, người Việt ta
có câu “ngọc còn có vết” là vì thế”.
Trước hết, anh Tú đã hiểu sai 2 điều
sau đây:
1. Bỏ điều 4, anh nghĩ là chúng tôi “đòi thay đổi
vị trí lãnh đạo cách mạng của Đảng”. Chúng tôi đâu có bảo Đảng không được lãnh
đạo mà chỉ muốn sự lãnh đạo của Đảng CSVN (hay bất cứ đảng nào) phải chính
danh.
Cho nên Kiến nghị 72 ghi rất rõ, anh
Tú nếu chưa đọc xin đọc lại đoạn này:
“Nếu hiến pháp thực sự do nhân dân
quyết định thì việc định trước vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội thuộc về một
tổ chức chính trị hay một tầng lớp là trái với quyền làm chủ của nhân dân,
quyền con người, quyền công dân và ngược với bản chất của một nhà nước pháp
quyền”.
Nghĩa là đảng nào được
nhân dân lựa chọn thì chính danh, thì trở thành đảng cầm quyền, chứ
không thể mặc định một cách bất bất biến, đó là nguyên tắc của một nhà nước dân
chủ. Một đảng hôm qua tiến bộ, hôm nay có thể lạc hậu, nhưng ngày mai có thể
lại tiến bộ. Tuỳ mỗi lúc như thế nào mà nhân dân lựa chọn hay không lựa chọn.
2. Tính chính danh sẽ làm cho Đảng CSVN mạnh lên,
giúp Đảng luôn luôn đào thải những phần tử thoái hoá. Cho nên Kiến nghị 72 viết
tiếp:
“Chủ thể nào lãnh đạo xã hội sẽ do
nhân dân bầu chọn ra trong các cuộc bầu cử tự do, dân chủ, định kỳ. Một chính
đảng thực sự có chính nghĩa, phục vụ lợi ích của nhân dân sẽ không lo bị thất
bại trong các cuộc bầu cử như vậy. Hiến pháp của Liên Xô năm 1977 quy định ở
Điều 6 vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với nhà nước và xã hội đã không
tránh được sự sụp đổ của chế độ Xô-viết khi không còn lòng tin của dân.
Việc đảng cầm quyền chấp nhận cạnh
tranh chính trị là phù hợp với xu thế lịch sử, là điều kiện cho sự phát triển
của đất nước, đáp ứng đòi hỏi của nhân dân, kể cả các đảng viên trung thực của
Đảng Cộng sản Việt Nam trước bối cảnh hiện nay của đất nước.
Ý kiến nêu trên được tiếp thu sẽ tạo
cơ hội cho Đảng Cộng sản Việt Nam lấy lại niềm tin đã từng có trong dân để thực
sự trở thành lực lượng lãnh đạo chính trị được xã hội chấp nhận”.
Tôi là một đảng viên, cũng như hầu
hết các vị nhân sỹ trí thức ký Kiến nghị 72 (đợt 1) là đảng viên, lẽ nào không
mong đảng mình giành được quyền lãnh đạo? Nhưng muốn thế phải giành được quần
chúng bằng sự chính danh, bằng sự tín nhiệm chứ không thể ép buộc.
Sau nữa, anh phải đem đạo lý ra để
bảo vệ sai lầm của Đảng thì quả là bi hài và cũng không đúng đạo lý! Nếu đã
chấp nhận Đảng cầm quyền một cách mặc định bất biến như anh thì phải chấp nhận
mọi sai lầm của Đảng thôi, kể cả Đảng có đưa dân tộc này đến chỗ diệt vong. Nếu
nhân dân đã giao phó sinh mệnh của mình cho Đảng một cách vĩnh viễn thì “lượng
cả bao dong” của nhân dân cũng là vô nghĩa!
Anh Tú lấy công lao của Đảng trong
quá khứ để Đảng cầm quyền vĩnh viễn lại càng hớ. Anh viết: “Việc đòi bỏ
điều 4 Hiến pháp vừa phi lý, vừa chẳng hợp tình. Phi lý ở chỗ với vai trò lịch
sử của mình không một ai có thể làm thay Đảng ta công cuộc đưa đất nước phát
triển, lớn mạnh; chẳng hợp tình ở chỗ cố tình quên lịch sử, cố tình quên những
hy sinh xương máu của Đảng ta...”
Anh Tú ạ, thứ nhất, không ai quên
Đảng CSVN đã từng “hy sinh xương máu” nhưng cũng phải thấy đấy là xương máu của
cả dân tộc mà Đảng chỉ là một bộ phận. Hàng vạn quần chúng vô danh đã chết, đã
bị tù đày trong các cao trào do Đảng phát động hay trong chiến tranh vệ quốc,
suốt từ Xô viết Nghệ Tĩnh, qua khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ, Đô Lương, qua
kháng Nhật, kháng Pháp, kháng Mỹ, kháng Pôn-pốt, kháng Tàu Cộng, số quần chúng
vô danh này chắc chắn nhiều hơn đảng viên của Đảng hàng ngàn lần. Không có nhân
dân thì Đảng không làm nên cái gì cả. Mà trớ trêu là nhân dân hy sinh như thế
mà đến nay lại không có tự do, hạnh phúc. Nhiều người đã ủng hộ Đảng, ủng hộ
kháng chiến hết lòng nhưng nay lại là nạn nhân của chính những quan chức mà họ
đã tận tình chở che, đùm bọc. Và xương máu nhân dân đổ ra trước khi có Đảng
cũng gián tiếp góp phần cho Đảng về sau. Từ các cuộc giữbán đảo Sơn Trà (1858),
giữ thành Gia Định (1859 – 1862), giữ thành Hà Nội (1873, 1882), cuộc phản công
ở kinh thành Huế (1885), rồi cả một phong trào Cần vương rộng lớn với hàng chục
cuộc khởi nghĩa (1885 – 1900), rồi các cuộc vận động cứu nước của Phan Bội
Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thái Học,... Những phong trào ấy đã nuôi dưỡng
tinh thần yêu nước, nuôi dưỡng dòng máu quật cường của dân tộc Việt Nam, tạo
điều kiện để Đảng CSVN, người lãnh đạo cuộc chạy tiếp sức cuối cùng,
giành thắng lợi. Không có các phong trào trước đó để dân tộc trưởng thành thì
cũng không có sự thành công về sau. Giai đoạn 1900 – 1945, cái giai đoạn mà anh
Tú cho là đất nước trong cảnh tối tăm mù mịt ấy, thực ra đó chỉ là một mặt của
đời sống, một mặt khác, nhờ cuộc chạy tiếp sức của các thế hệ các nhà cách mạng
và trí thức, dân tộc ta đã trưởng thành vượt bậc, từ ý thức dân tộc, ý thức cá
nhân đến văn hoá, văn học, nghệ thuật. Là người nghiên cứu văn học Việt Nam , chắc anh
Tú thừa hiểu điều đó.
Thứ hai, theo cách lý luận của anh
thì hàng loạt dòng tộc ở nước ta đều có quyền đòi hỏi cái quyền lãnh đạo đất
nước, bởi vì cha ông họ cũng đã từng “hy sinh xương máu”, cũng đã từng đưa “đất
nước phát triển, lớn mạnh”. Có lẽ chỉ có thời các vua Hùng, thời An Dương
Vương, Hai Bà Trưng do sự ghi chép còn mù mịt, nên nay ta khong biết con cháu
các cụ ấy là ai, chứ từ Lý Bí là chúng ta có thể tìm được hậu duệ của những vị
tiền nhân có công lập quốc. Các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ, Hậu
Lê, Mạc, Tây Sơn, Nguyễn đều có thể tìm được “người thừa kế” ngai vàng hôm nay
dễ dàng. Và nếu như thế lịch sử không thể nào kết tội được những Kiều Công
Tiễn, Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống,... vì họ đều là con cháu của các triều đại
có công.
Thay lời kết
Nếu anh Nguyễn Thanh Tú viết bài
mắng mỏ, dạy dỗ chúng tôi theo lý thuyết cái “sổ hưu” của PGS.TS. Đại tá Trần
Đăng Thanh, thì chúng tôi bó tay. Còn nếu quả thật anh Tú nhận thức đúng như
những điều anh viết thì có lẽ chỉ vì anh không chịu tìm hiểu, không chịu suy
nghĩ, thì có thể trao đổi tiếp được. Thời đại thông tin tạo cơ hội cho mọi
người nhìn rộng ra năm châu bốn biển, cho nên mỗi người đều có thể tự tìm ra
chân lý. Cho nên ngay cả nhiều vị lãnh đạo cao cấp hoàn toàn ở trong “lề Đảng”
mà cũng có cái nhìn rất tiến bộ, rất thực tế. Cách đây 3 năm, ông Nguyễn Văn
An, nguyên Chủ tịch Quốc hội đã từng đề nghị nhân dân phải có quyền phúc quyết hiến pháp, cũng có nghĩa quyền lập
hiến thuộc về nhân dân. Cũng có nghĩa không thể áp đặt Điều 4. Và mới đây, TS.
Nguyễn Sỹ Dũng, đương kim Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, đã nêu rõ “hiến pháp là một bản khế ước xã hội” và “Một
bản Hiến pháp chỉ thực sự hiệu năng khi nó trở thành một thứ “kinh thánh”
thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Muốn được như vậy thì nó không thể bị áp đặt”.
Còn TS. Nguyễn Đình Lộc, nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp, như anh biết, là một
thành viên quan trọng của nhóm Kiến nghị 72, Trưởng đoàn của Đoàn đại biểu nhân
sỹ trí thức, đến trao tận tay Kiến nghị 72 cho Quốc hội.
Cho nên tôi hy vọng anh sẽ tìm hiểu
các nguồn thông tin, tìm hiểu thực tế, để chúng ta có thể biện bác bằng lý lẽ,
chứ không phải cậy thế “lề Đảng”, chỉ cần vung đao với ai khác mình bằng lời
kết tội “bọn cơ hội”, “bọn phản động”.
Thân chào anh.
Đào Tiến Thi
Nguồn Tễu blog
Nhận xét