Teo dần
quyền con người trong Hiến pháp
Hoàng Xuân Phú
Trong thời gian qua, nhiều
người mong muốn sửa đổi Hiến
pháp 1992, để bỏ hoặc thay đổi một số quy định, ví dụ như quy
định về quyền lãnh đạo (được hiểu là đương nhiên) của
Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đối với Nhà nước và xã hội (Điều
4), và quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước quản
lý (Điều 17–18).
Tôi không chia sẻ kỳ vọng đó, bởi không tin rằng
giới lãnh đạo hiện nay có thể sớm chấp nhận thay đổi những điều mà họ khẳng
định là bất di, bất dịch. Ngược lại, tôi thuộc số những người lo rằng việc
sửa đổi Hiến pháp có thể bị lợi dụng để hạn chế hơn nữa quyền con người.
Và bản dự
thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đã cho thấy nỗi lo đó không
phải là vô cớ. Thậm chí, không ngờ họ lại có thể đi xa như vậy…
Trong Hiến
pháp 1992, thuật ngữ "quyền con người" chỉ
được nhắc một lần, tại
"Điều 50: Ở
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con
người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn
trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định
trong Hiến pháp và luật."
Tức là "quyền con
người" được đồng nghĩa với "quyền công dân".
Vậy thì những người đang tạm thời bị tước"quyền công dân" sẽ
không còn được hưởng "quyền con người". Hơn nữa, sau
khi định nghĩa "Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam" (Điều 49), thì "quyền
con người" sẽ khôngcòn được áp dụng cho những người
đang tồn tại trên đất Việt Nam,
nhưng không hoặc chưa "có quốc tịch Việt Nam".
Điều này cho thấy cách hiểu về "quyền con người" trong Hiến
pháp 1992 phiến diện như thế nào.
Một thay đổi dễ nhận thấy trong dự
thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 là "quyền con
người" được tách ra, được nhắc tới 8 lần, luôn đi cạnh và
được đặt trước "quyền công dân". Ở chế độ mà giới
lãnh đạo vốn rất khó chịu khi nghe nhắc đến "nhân quyền" (tức
là "quyền con người"), thì đây là một bước tiến, muộn
mằn nhưng có vẫn hơn không.
Một thay đổi nữa, là "quyền
công dân" cùng "quyền con người" được
đưa từ Chương V (trong Hiến
pháp 1992) lên Chương II (trong dự
thảo sửa đổi Hiến pháp). Ở Cộng hòa Liên bang Đức, "quyền
con người" được đặt lên vị trí hàng đầu, trong Chương I của Hiến
pháp. Ở CHXHCN Việt Nam thì Chương I của Hiến pháp
được dành cho "Chế độ chính trị". "Chính
trị" là một cái gì đó rất thiêng liêng, mà cũng rất bí
hiểm, và càng bí hiểm thì càng… hữu dụng. Khi muốn đùn đẩy công
việc, thì tuyên bố: "Cần có sự vào cuộc của toàn bộ hệ
thống chính trị." Khi muốnlàm liều,
thì khẳng định: "Với quyết tâm chính trị, chắc
chắn sẽ làm được." Còn khi muốn lẩn tránh trách nhiệm
của bản thân, thì chỉ cần tỏ chút áy náy và "nhận trách
nhiệm chính trị".
Hai thay đổi kể trên là theo
hướng tiến bộ, đáng được ghi nhận. Song như vậy thì mới thể hiện rằng quyền
con người đã được chú ý hơn. Mà chỉ chú
ý thì chưa đủ và cũng chưa chắc đã tốt. Chẳng hạn, nếu bạn
được công anchú ý, thì điều đó không hẳn là dấu hiệu hay. Để
đánh giá chính xác các thay đổi về quyền con người và quyền công
dân, thì phải xem xét các quy định cụ thể.
Bài này không nhằm
mục đích đánh giá đầy đủ và toàn diện về dự
thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, mà chỉ điểm qua
một số ví dụ đáng lưu ý về sự thay đổi tiêu cực hay có thể là tiêu cực,
liên quan tới quyền con người và quyền công dân. Hy vọng rằng những
nhận xét dưới đây sẽ có ích cho những người đang muốn tham gia góp ý kiến
cho bảndự thảo sửa đổi Hiến pháp.
Quyền
hư quyền ảo
"Điều 21: Mọi
người có quyền sống."
Nghĩ một cách dân dã, thì thấy
điều này có vẻ ngồ ngộ. "Quyền sống" còn
hiển nhiên hơn cả "quyền ăn ngủ", bởi muốn "ăn
ngủ" thì tất nhiên phải "sống".
Vậy mà nếu hiến định rằng "Mọi người có quyền ăn ngủ" thì
ai nấy đã thấy ngây ngô.
Thực ra, câu "Mọi
người có quyền sống" cũng xuất hiện trong Hiến
pháp của một số nước, chẳng hạn tại Điều 2 của Hiến pháp Cộng hòa Liên bang Đức (Jeder hat das
Recht auf Leben). Điều đó chứa đựng một nội dung rất quan
trọng, mà hệ quả trực tiếp của nó là: Không thể có án tử hình,
vì tử hình một người là xâm phạm "quyền sống" của
người đó.
Chấp nhận án tử hình hay không
là một vấn đề nan giải, vẫn còn đang được tranh luận ở nhiều nơi trên thế
giới. Nhiều nước vẫn duy trì án tử hình, như Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.
Liệu có thật là nhà cầm quyền
Việt Nam
muốn hủy bỏ án tử hình hay không? Nếu đúng là họ muốn hủy bỏ án tử hình, thì
đây là một thay đổi rất quan trọng. Còn ngược lại, nếu họ vẫn định
tiếp tục duy trì án tử hình, thì Điều 21 của dự thảo sửa đổi Hiến pháp vừa thừa, vừa giả dối, và
chỉ chất to thêm đống quyền hữu danh vô thực trong Hiến pháp mà thôi.
"Thương binh, bệnh binh,
gia đình liệt sĩ được hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước. Thương binh
được tạo điều kiện phục hồi chức năng lao động, có việc làm phù hợp với sức
khoẻ và có đời sống ổn định."
"Những người và gia đình có
công với nước được khen thưởng, chăm sóc."
"Người già, người tàn tật,
trẻ mồ côi không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ."
Nghĩa là:
- Chỉ
đề cập đến một số đối tượng đặc biệt, đó là thương binh,
bệnh binh, gia đình liệt sĩ, những người và gia đình có công với nước,
người già, người tàn tật và trẻ mồ côi;
- Chỉ hứa
hẹn một cách chung chung, là "được hưởng các chính
sách ưu đãi", "được tạo điều kiện", "được khen thưởng,
chăm sóc", "được Nhà nước và xã hội giúp đỡ";
- Chỉ
đề cập đến mấy nội dung cụ thể, là "phục
hồi chức năng lao động, có việc làm phù hợp với sức khoẻ và có đời sống ổn
định", và những thứ đó chỉ dành riêng cho đối tượng thương
binh.
- Áp
dụng cho mọi công dân;
- Không
chỉ là hứa hẹn chung chung, mà nâng lên thành "quyền được bảo
đảm";
- Nội
dung "được bảo đảm" không chỉ dừng lại ở
mấy nội dung cụ thể, mà bao trùm lên toàn bộ "an sinh xã hội".
Đây là một ý tưởng cách mạng vĩ
đại, nếu họ thực tâm muốn triển khai. Tiếc rằng, nếu thực
tâm thì ngây ngô, và nếu không ngây ngô thì không thể thực tâm.
"Quyền được bảo đảm an sinh xã hội" là
một thứ quyền vu vơ và hoàn toàn không khả thi. Thời gian qua, mới chỉ tập trung cho một số đối
tượng rất chọn lọc và chỉ dừng lại ở mấy chế độ phúc lợi rất khiêm tốn, thế
mà còn chưa làm tốt nổi. Vậy thì sao có thể "bảo đảm an sinh xã hội" cho mọi
công dân? Lưu
ý rằng chế độ "an sinh xã hội" bao
gồm cả chăm sóc về y tế, trợ cấp ốm đau, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi
già, trợ cấp trong trường hợp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, trợ
cấp gia đình, trợ cấp thai sản, trợ cấp tàn tật, trợ cấp tiền tuất.Lấy đâu ra tiền của để thực hiện
"ý tưởng cách mạng vĩ đại" ấy?
"Công dân có quyền được bảo
đảm",
nhưng ai, cơ quan hay tổ chức nào phải đứng ra "bảo
đảm"? Phải chăng cuối cùng họ sẽ phán rằng Dân phải "tự
bảo đảm"?
Trong thời buổi tham nhũng hoành
hành từ trên xuống dưới, thì những chính sách viển vông không
chỉ vô ích, mà còn rất tai hại, vì giới cầm quyền sẽ "mượn
gió bẻ măng". Điều này đang diễn ra dưới nhiều danh nghĩa, ví
dụ như việc xây nhà ở xịn để bán cho người nghèo ở
giữa đô thị đắt đỏ. Khi đã đẻ ra một chính sách phúc lợi xã hội
nào đó thì họ có cớ để vung tiền từ ngân sách, tức là tiền của Dân. Tất
nhiên là không đủ để "ngập tràn thiên hạ". Lúc đó, "nước
có quyền chảy vào chỗ trũng", nghĩa là ưu tiên cho "người
thân" (theo nghĩa rộng, bao gồm cả những người quen
thân vì tiền), và cũng không quên phần mình. Đối với các quan
tham, "từ thiện" không còn là mục tiêu hành động, mà là
phương tiện để vơ vét cho bản thân.
Hơn nữa, khi số tiền của ít ỏi
có thể dành cho phúc lợi xã hội bị vung vãi trên diện quá rộng, thì nảy
sinh nguy cơ là nhiều người lẽ ra vẫn được hưởng trợ giúp sẽ không còn được
hưởng nữa.
Hai ví dụ kể trên cho thấy rằng: Dự thảo sửa đổi Hiến pháp có
thể đem lại cho người dân một số quyền mới nào đó, nhưng có khi lại là
những quyền hư ảo, trong khi những quyền bị cắt giảm thì
lại rất thật, như
sẽ trình bày trong phần tiếp theo. Điều đáng buồn là: Xu hướng giả
dối vẫn được tiếp tục duy trì và phát triển trong việc xây dựng Hiến pháp.
Quyền thoi
quyền thóp
"Không
ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê
chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc
bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật." (Điều 71, Đoạn 2)
Điều
71 được sửa thành Điều 22 trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp, nhưng toàn bộ quy
định được trích ở trên (nhằm hạn chế việc bắt người tùy tiện và
yêu cầu "bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật")
đã bị xóa. Trong thời gian qua, Hiến pháp đã quy định rõ ràng như vậy mà
công an vẫn bắt người và giam giữ rất tùy tiện. Rồi đây, khi quy định ấy đã
bị gạch khỏi Hiến pháp, thì số phận người dân sẽ ra sao?
"Việc
khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan Nhà nước xem xét và giải quyết trong
thời hạn pháp luật quy định." (Điều 74, Đoạn 2)
Điều
74 được sửa thành Điều 31 trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp, nhưng quy định vừa được trích
(nhằm ràng buộc về thời hạn giải quyết khiếu nại, tố cáo)
không còn nữa. Vốn dĩ, khiếu nại và tố cáo của công dân hay bị ngâm tôm bất
tận. Đến đại công thần của chế độ gửi kiến nghị cũng chẳng được hồi âm. Vậy
thì sau này, khi ràng buộc về thời hạn giải quyết khiếu nại, tố
cáo bị xóa khỏi Hiến pháp, Dân sẽ phải chờ đợi bao lâu?
"Không
ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản
án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật."
Khi điều khoản trên hóa thân vào dự thảo sửa đổi Hiến pháp, 5 chữ "và
phải chịu hình phạt" bị loại bỏ. Thành thử chỉ còn sót
lại như sau:
"Không
ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật." (Điều 32, Khoản 1)
Hệ quả kéo theo là: "Khi
chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật" thì "không
ai bị coi là có tội", song vẫn có thể "phải chịu
hình phạt". Ở các nước văn minh thì hiển nhiên không ai "phải
chịu hình phạt" khi chưa "bị coi là có
tội". Nhưng ở xứ sở bất an, nơi khi được công an "mời
vào" đồn thì vẫn còn mạnh khỏe, mà lúc "tiễn ra" có thể đã
liêu xiêu, thậm chí có trường hợp trở thành xác không hồn, thì việc triệt
tiêu 5 chữ "và phải chịu hình phạt" sẽ
giúp cho công an nhân dân thêm vô tư "luyện võ" với Nhân dân.
"Người bị bắt, bị giam
giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt
hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc
bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác
phải bị xử lý nghiêm minh."
"Người bị bắt, bị tạm
giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền
được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người
làm trái pháp luật trong việc bắt,tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy
tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật."(Điều 32, Khoản 4)
Nghĩa là: Từ "giam
giữ" được thay bằng "tạm giữ, tạm
giam". Hậu quả là: Khi đã kết án tù giam và chuyển từ trạng
thái "tạm giữ, tạm giam" sang hình thức "giam
giữ" để chấp hành án, thì người tù không còn được
bảo vệvà người coi tù làm trái pháp luật không còn
bị xử lý theo quy định của điều khoản sửa đổi.
Ba nội dung bị loại bỏ được đề
cập ở trên đều có chung một "tội" là:
Chúng hay để Dân níu bám, nhằm tố cáo chính quyền vi phạm Hiến pháp và pháp
luật. Có lẽ vì vậy nên phải "kết liễu" chúng, đẩy chúng ra khỏi
Hiến pháp, để… giữ gìn uy tín cho chính quyền. Ngoài ra, hai quy định sau
đây cũng đã bị loại bỏ khỏi dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
Điều 64 về hôn nhân và gia đình
trong Hiến pháp 1992 được sửa thành Điều 39 trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp, nhưng lại bỏ đi đoạn
quy định về trách nhiệm nuôi dạy con của cha mẹ và trách
nhiệm chăm sóc ông bà, cha mẹ của con cháu. Điều đó cũng có nghĩa là bỏ
đi quyền của con cái được cha mẹ nuôi dạy và quyền
của ông bà, cha mẹ được con cháu chăm sóc.
"Bậc
tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí."
Và
nó được thay bằng một quy định chung chung trong Điều 66:
"Nhà
nước… quy định phổ cập giáo dục; thực hiện chính sách học bổng, học phí hợp
lý…"
Quyền
treo trên lửa
Loài người từ khi sinh ra đã tồn
tại và phát triển nhờ biết lợi dụng. Ban đầu thì sống nhờ săn
bắt và hái lượm, tức là lợi dụng rừng và biển. Rồi tiến hành
trồng cấy, tức là lợi dụng đất đai và ánh sáng mặt trời. Từ vận
chuyển hàng hóa trên sông đến ngăn đập tạo ra thủy điện đều là lợi
dụng sức nước. Từ căng buồm ra khơi đến tạo ra phong điện đều là lợi
dụng sức gió…
Đảng Cộng sản Đông Dương đã lợi
dụng thời cơ, khi phát xít Nhật bị quân đồng minh đánh bại và chính
quyền thuộc địa Pháp chưa kịp hồi sinh, để cướp chính quyền. Trong những
năm tháng hoạt động bí mật, đảng đã lợi dụng sự cưu mang, giúp đỡ
và che chở của những người giàu có, để rồi khi chiếm được chính quyền
lại đem bao ân nhân ra đấu tố… trong cải cách ruộng đất. Trong cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ, Đảng Lao động Việt Nam cũng đã lợi
dụng tính mạng và của cải của Nhân dân cùng với sự ủng hộ của bạn bè quốc
tế để giành thắng lợi.
"Lợi dụng" thuộc vào bản năng sống và
hành động của con người. Vậy thì việc "lợi dụng" có
gì sai? Lợi dụng điều kiện thuận lợi không thể bị coi là
xấu, mà không lợi dụng điều kiện thuận lợi cũng chẳng phải
là điều đáng để ngợi ca.
Trong các nhà nước pháp quyền, hoạt
động của toàn xã hội được điều tiết bằng pháp luật. Xã hội càng văn minh,
càng đa dạng thì hệ thống pháp luật càng cồng kềnh và phức tạp. Dù cố gắng
đến đâu đi nữa, thì vẫn luôn tồn tại những kẽ hở pháp lý và những quy định
chồng chéo. Khi có kẽ hở thì công dân có quyền lách qua mà không hề vi phạm
pháp luật. Khi tồn tại nhiều điều khoản chồng chéo, với những quy định khác
nhau có thể áp dụng cho cùng một vụ việc, thì đương sự có quyền áp dụng
điều khoản có lợi nhất cho mình. Vì vậy, ở một số nước phát triển cao vẫn
công khai bày bán những cuốn sách về các mẹo tính thuế để giảm thuế. Những
hành động như vậy không phải là tội lỗi, mà hoàn toàn hợp pháp.
Ấy vậy mà ở CHXHCN Việt Nam lại có
một loại tội gọi là "tội lợi dụng…". Kỳ khôi
nhất là "tội lợi dụng sơ hở của pháp luật…".
Nếu cần xử lý, thì trước hết phải xử lý những người đã tiêu tốn tiền của
Dân mà tạo ra sơ hở pháp luật, chứ sao lại dồn hết trách nhiệm
lên đầu những người lợi dụng sơ hở đó? Kiểu quy tội này
cũng "hợp lý" như việc quan phụ mẫu mặc quần thủng… lên công
đường, rồi lại phạt dân đen vì tội nhìn vào chỗ thủng.
"Không
ai được… lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp
luật và chính sách của Nhà nước."(Điều 70,
Đoạn 3)
"Nghiêm
cấm việc… lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu
cáo làm hại người khác."(Điều 74, Đoạn 4)
Điều gì đáng nói ở đây? Như đã
phân tích ở trên, riêng hành động "lợi dụng" thì
không thể coi là tội, và vì vậy không thể cấm.
Để mô tả những thứ cần cấm và có thể cấm trong
hai điều khoản kể trên, thì chỉ cần viết gọn lại như sau là đã quá đủ:
"Không
ai được… làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước."
"Nghiêm
cấm việc… vu khống, vu cáo làm hại người khác."
Nghĩa là bỏ đi hai đoạn "lợi
dụng tín ngưỡng, tôn giáo" và "lợi dụng
quyền khiếu nại, tố cáo". Khi vi phạm các điều cấm vừa viết,
thì dù "lợi dụng…" hay không cũng chẳng
làm cho tội nặng lên hay nhẹ đi. Tức là, xét về mặt lô-gíc thuần túy thì
các đoạn "lợi dụng…" là hoàn
toàn thừa.
Vậy thì, tại sao nhà
cầm quyền vẫn cố tình cài thêm các đoạn "lợi dụng…" vào các điều
khoản ấy?
Phải chăng, đó là thủ
đoạn pháp lý, nhằm hạn chế và cản trở những quyền con người và quyền công
dân được gán sau từ "lợi dụng"?
Chắc
hẳn, mục tiêu mà họ nhắm tới là ngăn cản việc thực thi các quyền
đó, chứ không phải những cái gọi là vi phạm, mà họ bám vào để kết tội. Từ "lợi
dụng" bị lạm dụng để bắc cầu, nhằm kết
nối các quyền con người với các tội, để kiếm cớ phủ định các quyền chính
đáng, rồi trấn áp và trừng trị những người thực thi các quyền đó.
Ví dụ: Nếu ai đó thực thi "quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo" (được quy định tại đoạn thứ nhất
trong Điều 70 củaHiến pháp 1992), mà nhà cầm quyền không ưng, thì
họ sẽ gán cho cái nhãn "làm trái pháp luật và chính sách của
Nhà nước". Rồi dùng từ "lợi dụng" để
bắc cầu "tín ngưỡng, tôn giáo" với cái vi
phạm được ngụy tạo đó. Kết quả thu được là tội "lợi dụng
tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà
nước". Vậy là có thể vận dụng đoạn thứ ba trong Điều 70 của Hiến pháp 1992 và hệ quả của nó trong Bộ luật Hình sự (Điều 258) để
trừng trị.
"Không ai được… lợi
dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật." (Điều 25, Khoản 3)
"Nghiêm cấm việc… lợi
dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người
khác."(Điều
31, Khoản 3)
"Không được lợi
dụng quyền con người, quyền công dân để xâm phạm lợi ích quốc gia,
lợi ích dân tộc, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác." (Điều 16, Khoản 2)
Với bảo bối vạn năng này, tất
cả các quyền con người và quyền công dân đều có thể bị cản trở. Cái
nhãn"xâm
phạm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, quyền, lợi ích hợp pháp của người
khác" thì
quá bao la và có thể dễ dàng ngụy tạo. Trên thực tế, họ cũng chẳng cần phải
mất công tìm kiếm hay bày đặt chứng cớ, mà chỉ cần nhắm mắt đưa ra kết luận
mang tính quy chụp.
Những ai đã từng trực tiếp chứng
kiến các cuộc biểu tình yêu nước, phản đối hành động gây hấn của "bạn
16 chữ vàng", diễn ra tại Hà Nội vào hai mùa hè 2011 và 2012, thì đều
có thể nhận thấy rằng: Những người tham gia biểu tình rất ôn hòa và luôn
chú ý giữ gìn trật tự công cộng, để công an không có cớ trấn áp. Nếu có hỗn
loạn thì lại do chính những người mang danh lực lượng giữ gìn an ninh và
trật tự cố ý gây ra. Thế nhưng, nhà cầm quyền vẫn vu cho những người biểu
tình tội gây rối trật tự công cộng để đàn áp. Đó là một trong những thủ
đoạn đã được áp dụng trên thực tế để cản trở và trấn áp công dân thực thi
quyền tự do biểu tình.
Chưa
hài lòng với cái lưới tà ma bao trùm kể trên, họ còn bổ sung một điều khoản "cấm
lợi dụng" sau đây vào dự thảo sửa đổi Hiến pháp:
"Nghiêm cấm hành vi lợi
dụng hoạt động văn hóa, thông tin làm tổn hại lợi ích quốc gia,
phá hoại nhân cách, đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam, truyền
bá tư tưởng, xuất bản phẩm và các hình thức khác có nội dung phản động, đồi
trụy, mê tín, dị đoan." (Điều 64, Khoản 4)
Với quy định này, nhà cầm quyền có
thêm phương tiện pháp lý để cản trở quyền tự do ngôn
luận và tự do báo chí…
Thủ đoạn lợi dụng… từ "lợi
dụng" để biến những hoạt động chính đáng và hợp
pháp của công dân thành tội lỗi là như vậy.
Quyền
nằm dưới dao
"Điều 69: Công dân
có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông
tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định
của pháp luật."
Đặc biệt ở chỗ nào? Nó quy định 6 quyền cơ bản
của công dân, nhưng… trên thực tế thì tất cả 6 quyền ấy đều bị
nhà cầm quyền cản trở.
Ví dụ điển hình là quyền biểu tình.
Với ràng buộc "theo quy định của pháp luật", nhà cầm
quyền có thể thông qua Quốc hội để ban hành luật, nhằm hạn chế quyền biểu
tình trong một khuôn khổ nào đó. Nhưng hàng chục năm trôi qua, vẫn không
xuất hiện một luật nào liên quan đến biểu tình. Nhiều người, kể cả giới cầm
quyền, nhầm tưởngrằng: Khi chưa có luật về biểu tình thì công
dân chưa được phép biểu tình. Nhưng bài "Quyền biểu tình của công dân" đã
chỉ ra rằng: Theo Hiến pháp hiện hành thì công dân luôn luôn có
quyền biểu tình. Nếu đã có luật về biểu tình thì công dân phải tuân
theo ràng buộc của luật đó. Khi chưa có luật về biểu tình thì công dân càng
có quyền biểu tình, và quyền ấy không bị hạn chế bởi
pháp luật, tức là càng tự do.
"Mọi tổ chức của Đảng hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật."
Căn cứ vào điều khoản này thì có thể nói rằng:
Việc công dân biểu tình khi chưa có luật về biểu tình còn chính
đáng và hợp pháp hơn so với việc ĐCSVN hoạt động khi
chưa có luật quy định về khuôn khổ hoạt động của đảng. Tại
sao lại chính đáng và hợp pháp hơn? Bởì vì "Nhà nước chỉ được làm những điều pháp luật cho phép, còn Nhân dân
được làm tất cả những điều pháp luật không cấm." Nhà
nước được hiểu là "một tổ chức xã hội đặc biệt của quyền lực chính trị, được giai cấp
thống trị thành lập nhằm thực hiện quyền lực chính trị của mình",
nên ràng buộc kể trên đối với Nhà nước cũng có hiệu lực cho ĐCSVN. Hơn
nữa, như ông Nguyễn Trung đã nhận định,"Đảng mới là nhà nước đích thực:
Nhà nước đảng trị." Rõ ràng, Hiến
pháp hiện hành không hề đề cập đến khuôn khổ hoạt
động của đảng và cũng chưa có luật nào quy định về khuôn
khổ đó, cho nên đảng cũng chưa có được"những điều pháp
luật cho phép" để mà "được làm",
để mà "hoạt động". Trong khi đó, quyền
biểu tình của công dân được minh định trong Hiến pháp hiện
hành và chưa có luật nào hạn chế quyền ấy, nên hiển nhiên là công dân có quyền
biểu tình không hạn chế.
- Chính
phủ không có quyền ban hành nghị định để hạn
chế quyền công dân;
- Dù
bỏ qua hai khía cạnh vừa kể, thì lời văn của hai văn bản ấy cũng không
cho phép áp dụng chúng để cản trở biểu tình yêu nước, như những
cuộc biểu tình ôn hòa đã diễn ra ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh trong hai năm
2011 và 2012.
Hẳn nhà cầm quyền đã nhận ra
rằng: Hiến pháp và pháp luật hiện hành không cho phép họ cản trở
quyền biểu tình của công dân. Ban hành luật về biểu tình thì họ
hoàn toàn không muốn, vì dù quy định ngặt nghèo đến đâu đi nữa thì vẫn sẽ
"lọt lưới" một số cuộc biểu tình. Vậy phải làm thế nào bây giờ?
Lợi
dụng thời cơ sửa
đổi Hiến pháp, họ đã sửa Điều 69 của Hiến pháp 1992 như sau:
"Điều 26: Công
dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, được thông
tin, hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật."
Điều gì thay đổi ở đây? Họ đã
xóa hai từ "có quyền" trước đoạn "được thông
tin" và trước đoạn "hội họp, lập hội, biểu
tình". Đồng thời, họ dùng chữ "được" (vốn
dĩ chỉ là một thành phần của từ "được thông tin")
thay cho hai từ"có quyền" ấy. Để
làm gì? Để xóa bỏ những quyền cơ bản đó của công dân. Từ
chỗ công dân luôn "có quyền" (kể cả khi
không có luật hoặc chưa có luật liên quan), bây giờ bị tước "quyền", và "quyền" bị hạ
cấp xuống thành những thứ "được" ban
phát. Mà "được… theo quy định của pháp luật" thì
cũng có nghĩa là "chỉ được… theo quy định của pháp
luật". Tức là công dân "chỉ được" ban
phát nếu nhà cầm quyền đã ban hành "quy định của pháp luật".
Khi nhà cầm quyền chưa muốn, lờ đi việc ban hành "quy định của
pháp luật", thì Dân sẽkhông "được thông
tin, hội họp, lập hội, biểu tình".
Đây là một thủ đoạn pháp lý tinh
vi, nhằm tước đoạt quyền được thông tin và các quyền hội họp, lập hội và
biểu tình của công dân.
"Quyền con người, quyền
công dân chỉ có thể bị giới hạn trong trường hợp cần thiết
vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức,
sức khỏe của cộng đồng." (Điều 15, Khoản 2)
Điều khoản này là một sáng tạo
pháp lý mới mẻ của các nhà lập hiến CHXHCN Việt Nam. Chữ "chỉ" tạo
ra ảo tưởng rằng: Điều khoản này nhằm hạn chế những hoàn cảnh mà quyền
con người và quyền công dân có thể bị giới hạn, tức là để bảo
vệ các quyền đó. Thế nhưng hậu quả của nó thì ngược lại.
Vốn dĩ, việc "quyền
con người, quyền công dân có thể bị giới hạn" không hề được
đề cập đến trong Hiến pháp 1992. Nay điều này được nêu
đích danh trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp, nhằm hiến
định hóa việc chính quyền có thể giới hạn quyền con người và quyền công
dân.
Danh sách "lý do
quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức, sức khỏe
của cộng đồng" rộng đến mức có thể bao trùm mọi hoàn cảnh
thông thường. Cho nên, nhà cầm quyền luôn có thể viện dẫn những lý do đó,
nhằm giới hạn quyền con người và quyền công dân, bất cứ
lúc nào mà họ muốn. Vì vậy, việc nhét chữ "chỉ" vào
điều khoản ấy chẳng hề có tác dụng hạn chế phạm vi hành động của giới
cầm quyền, mà chỉ ngụy trang, che đậy mục đích hiến
định hóa ấy mà thôi.
Điều khoản kể trên quy định rằng "quyền
con người, quyền công dân… có thể bị giới hạn", nhưng lại không
viết rõ ai và cấp nào có quyền giới hạn. Điều đó mở
đường cho bộ máy cầm quyền các cấp có thể can thiệp tùy tiện vào quyền con
người và quyền công dân.
Như vậy, Điều 15,
Khoản 2 cũng là một thủ đoạn pháp lý tinh vi, nhằm thu hẹp quyền con người
và quyền công dân.
Hai ví dụ kể trên nhắc nhở mọi
người phải hết sức cảnh giác với những bẫy pháp lý đã
được cài trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
Giữ
chút quyền Dân
"Thành tựu của Hiến pháp
1992 cần được bảo vệ và tiếp tục phát huy, đặc biệt nguyên tắc Nhà nước của
dân, do dân, vì dân, mọi quyền lực Nhà nước đều thuộc về nhân dân, phát huy
các quyền tự do cơ bản của nhân dân trên mọi mặt. Do đó, chỉ nên
sửa đổi Hiến pháp 1992 nếu phát huy hơn nữa các quyền tự do, dân chủ, chú
trọng đổi mới đồng bộ chính trị và kinh tế, nhờ thế tạo động lực mạnh mẽ
hơn cho giai đoạn cách mạng mới. Nếu không làm được như vậy thì không nên
sửa lặt vặt."
Tiếc rằng, đề nghị hợp lý và
sáng suốt này chưa được phản ảnh đúng mức trong bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Không "phát huy hơn
nữa các quyền tự do, dân chủ", như Đại biểu Quốc hội Trương Trọng
Nghĩa đề nghị, mà ngược lại, dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã cắt giảm nghiêm trọng
quyền con người và quyền công dân.
Dân
không quan tâm nhiều đến việc ghế lãnh đạo được hoán vị ra sao và quyền lực
được chia lại thế nào. Họ đủ thông minh để hiểu rằng: Những tiến bộ được
tung hô, như việc bỏ hiến định về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước, có thể là một bước tiến trong tư duy của giới lãnh đạo và giới lý
luận, nhưng sẽ chẳng tác động mấy đến thực tế cuộc sống. Khi không còn được
gán cho vai trò chủ đạo, thì thành phần kinh tế nhà nước sẽ được
giũ bớt trách nhiệm đối với nền kinh tế quốc dân, nhưng lại vẫn
tiếp tục được hưởng mọi sự o bế và ưu tiên. Đó là lãnh địa lý tưởng cho
tham nhũng, là đại lộ thông thoáng để tuồn tài sản toàn dân vào túi các
quan tham.
Dân
quan tâm nhất là các quyền lợi thiết thân, trong đó có quyền sở hữu đất đai.
Như
đã trao đổi trong bài "Hai tử huyệt của chế độ",
quy định trong Hiến pháp 1992 về quyền lãnh
đạo mặc nhiên của ĐCSVN (Điều 4) và đất đai thuộc sở hữu toàn dân (Điều 17) là hai vấn đề
tồn tại then chốt. Chúng phải được khắc phục sớm, vì Dân, vì Nước và cũng
vì chính ĐCSVN. Thế nhưng, hai quy định này vẫn được dự thảo sửa đổi Hiến pháp bảo lưu, trong khi quyền con
người và quyền công dân lại bị thu hẹp đáng kể.
Đối với Dân, Hiến pháp kiểu này
có thể trở thành bãi mìn pháp lý. Nếu dự thảo như vậy được thông qua, thì Hiến
pháp có thể không còn là khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của Nhà nước và xã
hội, mà trở thành cái gông cùm Nhân dân và Dân tộc.
Chất
lượng dự thảo sửa đổi Hiến pháp thể hiện cái tâm và tầm của
các tác giả, không chỉ bao gồm những người trực tiếp tham gia soạn thảo, mà
kể cả những vị ngồi trên cao để chỉ đạo và áp đặt. Nếu chỉ hạn chế về tầm,
tức là do trình độ hay do sơ suất, thì Nhân dân có thể góp ý để bù lại.
Nhưng những ví dụ được đề cập ở trên cho ta ấn tượng là: Những thay đổi
theo hướng tiêu cực trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã
được tiến hành một cách có chủ ý và được tính toán kỹ lưỡng.
Thậm chí, họ đã vận dụng cả những thủ thuật và thủ đoạn pháp lý
tinh vi để thực hiện và che đậy mục đích đó. Khi tâm đã
như vậy, thì liệu việc góp ý của Nhân dân có đủ để lay chuyển
được quyết tâm sắt đá của họ hay không? Thật khó mà tin
rằng họ có thể sữa chữa bản dự thảo để
đưa ra một Hiến pháp thực sự tử tế với Dân.
Vì
vậy, để bảo vệ quyền con người và quyền công dân, thì nên tạm
dừng việc sửa đổi Hiến pháp 1992. Hãy đợi đến một thời điểm thuận
lợi hơn, khi tầm đã đủ cao và tâm đã
đủ ổn, rồi hãy thay đổi Hiến pháp một cách căn bản, theo chiều hướng
tiến bộ, để có được một bản Hiến pháp thể hiện ý nguyện của Dân,
do Dân và vì Dân.
Hà
Nội, 15/01/2013
Theo Tễu blog
|
Nhận xét