Đảng - Nhà nước - Hiến pháp Vài suy nghĩ về sửa đổi Hiến pháp 1992
Thứ Sáu, ngày 18/01/2013 - 8:50 (GMT+7)
Đảng – Nhà nước – Hiến pháp
I. Đảng và Nhà nước
Đảng – Nhà nước – Hiến pháp
Vài suy nghĩ về sửa đổi Hiến pháp 1992
Nguyễn Trung
Nguyễn Trung
(Cựu Đại sứ Việt Nam ở Thái Lan, cựu thành viên
Ban nghiên cứu của Thủ tướng)
Trong
thực tiễn đời sống của hệ thống chính trị nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam kể từ khi Việt Nam là một quốc gia độc lập thống nhất cho thấy Đảng Cộng
Sản Việt Nam – với đòi hỏi tự đặt cho mình là phải bảo đảm sự lãnh đạo toàn
diện và tuyệt đối của Đảng – đã và đang là người nắm quyền lực toàn diện và
tuyệt đối mang tính độc quyền toàn trị đối với quốc gia.
Cùng
với sự trói buộc của ý thức hệ và sự tha hóa trong thời bình, sự lãnh đạo của
Đảng mang tính độc quyền toàn trị như thế trên thực tế đã biến dạng thành sự
cai trị, Đảng mới là nhà nước đích thực: Nhà nước đảng trị.
Sự tha hóa này khiến Đảng với danh nghĩa là đội ngũ tiên phong của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động… trở thànhđảng thống trị.
Với vị
thế và quyền lực như vậy của ĐCSVN, Nhà nước trở thành công cụ thực thi quyền
lực và quyết định của Đảng, Hiến pháp trở thành công cụ hợp thức quyền lực và
việc làm của Đảng. Để biện hộ cho hệ thống chính trị như vậy của đất nước, Hiến
pháp 1992 xác định đấy là nhà nước pháp quyền định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Thiết
kế như thế ngay trong Hiến pháp 1992, Đảng được đặt ở vị trí đứng trên Hiến
pháp và trên nhà nước. Đây chính là nội dung cơ bản của Điều 4 trong Hiến pháp
1992. Trong một quốc gia với hệ thống chính trị như thế hoàn toàn không có
không gian cho tiêu chí quyết định số một của nhà nước pháp quyền,
đó là: Hiến pháp là quyền lực tối thượng.
Đem so
sánh một bên là quyền lực mà Đảng giành cho mình[1] và được luật hóa trong
Điều 4, và một bên là nhữngđược/mất trong quá trình phát
triển mọi mặt của đất nước trong 37 năm độc lập thống nhất, đặc biệt là so với
thực trạng nguy hiểm của đất nước hôm nay, vai trò lãnh đạo và phẩm chất của
Đảng đối chiếu ngay với Cương lĩnh và Điều lệ của Đảng, cũng như so với chính
Điều 4, kết quả rõ ràng không như Đảng đã cam kết với đất nước: Đảng
không làm được nhiệm vụ tiên phong và lãnh đạo với đúng nghĩa, mà chủ yếu chỉ
thực hiện được vai trò của người có quyền thống trị. Uy tín của Đảng
cũng như lòng tin của nhân dân vào Đảng vì thế theo thời gian chưa bao giờ giảm
sút như ngày nay. Như thế tự mình, Đảng đã không thực hiện nổi nhiệm vụ của
mình như đã ghi cho mình trong Điều 4. Chính Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã
phải nhận định sư hư hỏng của Đảng hiện nay đã đến mức thách thức sự tồn vong
của Đảng và của hệ thống chính trị.
Với
thực tế của cuôc sống đất nước 37 năm nay như vậy, và với nhận định của Tổng bí
thư Nguyễn Phú Trọng về thực trạng tha hóa hiện nay như vậy của Đảng, xin hỏi:
Điều 4 còn lý lẽ gì để tồn tại?
Điều
4 trong dự thảo Hiến pháp sửa đổi lần này được chỉnh sửa chút ít, đó là
Đảng “chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về
những quyết định của mình”.
Đọc lại
tất cả các văn bản Đại hội Đảng từ Đại hội IV (1976), có lúc nào Đảng không
nhấn mạnh chịu sự giám sát của nhân dân, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình…
Trong toàn bộ hoạt động của Đảng kể từ khi thành lập, có lúc nào Đảng không cam
kết trách nhiệm của mình trước đất nước, trước nhân dân? Sự cam kết trách nhiệm
như vậy chính là tiền đề và là lẽ tất yếu cho sự ra đời và tồn tại của Đảng, vì
thế nó không cần và không phải chờ đến khi phải được đưa vào Hiến pháp mới được
thực hiện. Vì thế lúc nào cũng chỉ có vấn đề Đảng thực hiện được hay không cam
kết của mình đối với đất nước mà thôi.
Nhìn
nhận kết quả đợt vận động tự phê bình và tự phê bình được phát động từ Hội nghị
Trung ương 4 khóa XI và sự xin lỗi chân thành của Bộ Chính trị trước nhân dân
mà cả nước đã được nghe, hiển nhiên sẽ thấy: Việc bổ sung thêm chi
tiết nói trên vào Điều 4 hoàn toàn không có khả năng xoay chuyển tình thế đất
nước, bởi vì tư duy và đường lối của Đảng, hệ thống chính trị hiện hành, vị thế
độc quyền toàn trị của Đảng đứng trên tất cả còn nguyên vẹn.
Chi
tiết bổ sung như thế vào Điều 4 chỉ chứng minh: Đảng quyết cố thủ.
Hiến
pháp 1992 có nhiều Điều, Khoản đúng, tốt về các quyền công dân cơ bản – như
quyền sở hữu, các quyền về tự do, dân chủ và quyền con người…, về các quyền và
nghĩa vụ của các bộ phận thuộc hệ thống nhà nước, vân vân…
Tuy
nhiên, thực tế là hầu hết những Điều, Khoản đúng và tốt này không được và không
thể thực thi, hiện tượng vi hiến ngày càng nhiều và nghiêm trọng trong đời sống
đất nước ở mọi cấp và mọi nơi; chủ yếu vì các nguyên nhân chủ yếu sau đây:
(a)
Hiến pháp có một số Điều được thiết kế không dứt khoát.
(b) Có
một số Điều và Khoản trên thực tế là ngược hay phủ định nhiều Điều và Khoản
khác trong Hiến pháp, hoặc gần như là phủ định toàn bộ Hiến pháp – trước hết
chính là Điều 4, những Điều và Khoản về đất đai (rõ nét nhất là vấn đề “quyền
sở hữu toàn dân” về đất đai…), về kinh tế quốc doanh… Đấy là nói về nội dung
Hiến pháp 1992.
(c)
Ngoài ra còn phải kể đến nguyên nhân thứ 3 vô
cùng quan trọng và quyết định hàng đầu, đó là hệ thống quyền lực không coi
trọng Hiến pháp, và ngay từ đầu trong hành động thực tế là bác bỏ nguyên tắc Hiến
pháp là quyền lực tối thượng của quốc gia, chỉ sử dụng Hiến pháp ở
những chỗ và những lúc khi quyền lực cần..
Trong
tình hình như vậy, nếu không có các chi tiết bổ sung cho Hiến
pháp 1992 sửa đổi đủ sức mạnh khắc phục cả 3 nguyên nhân nói trên,
việc sửa đổi Hiến pháp 1992 sẽ trở nên vô nghĩa.
Và rõ
ràng không có phép lạ nào viết ra được những chi tiết bổ sung có đủ sức mạnh
như thế, ngoài việc viết ra Hiến pháp mới.
Giả
định rằng có phép lạ viết ra được Hiến pháp mới hoàn hảo đến tuyệt đỉnh, song
vẫn giữ nguyên Đảng với tư duy, tổ chức, vị thế, quyền lực, cùng với bộ máy
chuyên chính tinh thần và bộ máy chuyên chính bạo lực của nó hiện nay như thế
trong quốc gia, trong hệ thống nhà nước, trong kinh tế và trong đời sống văn hóa
– xã hội.., gọi tất cả những thứ này dưới một cái tên chung tổng hợp là hiện
tượng “đảng hóa”, Hiến pháp mới cũng sẽ chỉ có giá trị trang trí.
Có thể
kết luận ngay: Sửa đổi Hiến pháp dù có thể làm tốt thế nào đi nữa, mà Đảng vẫn
giữ nguyên đảng hóa và không thay đổi, sẽ vô ích.
Khi còn
đương chức, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt là người nhiều lần phê
phán kịch liệt hiện tượng đảng hóa như thế. Sự phê phán
này tổng hợp nhất và rõ nét nhất được nêu trong bức thư ngày 09-08-1995 gửi Bộ
Chính trị.
Trong
thư này, Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đặt vấn đề: (1) phải nhìn nhận lại thế giới,
(2) phải đánh giá lại đường lối phát triển đất nước, (3) phải xây dựng nhà nước
pháp quyền, (4) phải xây dựng lại Đảng về đường lối và về tổ chức. Cả 4 đòi hỏi
nêu trong thư này đến hôm nay vẫn còn nguyên giá trị và mức độ bức xúc khẩn
thiết của nó.
Những
năm cuối đời, Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã dành hết tâm huyết mình nhiều lần
viết và nói trực tiếp với từng ủy viên Bộ Chính trị và toàn thể Ban Chấp hành
Trung ương ĐCSVN, và nói với toàn dân: Phải từ bỏ mọi thứ chủ
nghĩa, Đảng phải tự lột xác để trở thành đảng của dân tộc.
Nhân
việc nhắc đến bức thư quan trọng này, xin cho phép hỏi trực tiếp trên ba triệu
đảng viên của Đảng hôm nay:“Đảng CSVN hôm nay có còn
cách nào phục vụ lợi ích quốc gia tốt hơn không? Có đảng viên nào hôm nay dám
nói mình yêu Đảng, bảo vệ Đảng hơn đảng viên Võ Văn Kiệt không?”
Nếu
lãnh đạo Đảng và Nhà nước hiện nay thành tâm mong muốn sửa đổi Hiến pháp lần
này để cứu Đảng, cứu nước, nhất thiết phải đặt vấn đề cải cách thay đổi Đảng
gắn kết hữu cơ với việc sửa đổi Hiến pháp trong tổng thể nhiệm vụ cải cách
chính trị canh tân đất nước, đúng với tinh thần và nội dung như vừa trình bầy
trên.
II
Sau 27
năm đổi mới, kinh tế đất nước đã hoàn thành thời kỳ phát triển ban đầu – thời
kỳ phát triển theo chiều rộng. Song hiện nay, vì nhiều sai lầm và
những yếu kém nhiều mặt trong quá trình phát triển này, nhất là những sai lầm
trong đường lối lãnh đạo đất nước của Đảng và sự tha hóa của hệ thống chính
trị, kinh tế nước ta chưa hội đủ mọi điều kiện phải có, để sẵn sàng đi vào thời
kỳ phát triển mới cao hơn: Thời kỳ phát triển theo chiều sâu.
Từ 5
năm nay đất nước lại lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế – chính trị – văn hóa –
xã hội toàn diện, đất nước chưa bao giờ đứng trước nhiều nguy cơ và thách thức
bức xúc như bây giờ, nhất là trong một thế giới đang bước vào một thời kỳ phát
triển mới với nhiều diễn biến khó lường..
Việc
Trung Quốc đang trở thành siêu cường tác động nghiêm trọng vào trật tự thế giới
hiện hành, và đồng thời thách thức gay gắt tất cả các nước láng giềng. Nhiều
tác động tiêu cực của siêu cường đang lên Trung Quốc đang gây ra những vấn đề
phức tạp mới như giành giật thị trường, vi phạm luật chơi chung, lôi kéo và tập
hợp lực lượng (bao gồm cả chính trị, tôn giáo, sự can thiệp của quyền lực
mềm…)… trong nhiều khu vực trên thế giới, lại trong thời kỳ tình hình thế giới
đi vào một thời kỳ phát triển mới phức tạp, do đó hiện tượng siêu cường Trung
Quốc đang lên trở thành vấn đề của cả thế giới trên nhiều phương diện. Đặc biệt
là tính xung đột quyền lực siêu cường mang tịnh văn hóa Đại Hán tập trung vào
khu vực châu Á, nhất là Đông Nam Á, vấn đề Trung Quốc càng trở nên đặc biệt
nhạy cảm và nguy hiểm, nhất là đối với các nước nhỏ trong khu vực.
Với
tính cách là chướng ngại vật tự nhiên đầu tiên nhất thiết phải khuất phục đối
với siêu cường Trung Quốc trên đường của nó vươn ra Biển Đông, Việt Nam là nước bị
uy hiếp nghiêm trọng nhất. Và chưa thể nói lãnh đạo của đất nước đã lường hết
mọi nguy hiểm của sự uy hiếp này, thậm chí có không ít biểu hiện lúng túng,
khiếp nhược.., càng không thể nói lãnh đạo của đất nước đã sẵn sàng phát huy tối
đa sức mạnh toàn dân tộc trước thử thách mất còn này đối với đất nước…
Trong
khi đó đất nước đang có nhiều khó khăn hiểm nghèo: Kinh tế khủng hoảng cơ cấu
sâu sắc chưa có lối ra; những bức xúc và bất công xã hội vì tự do dân chủ
bị đàn áp khiến lòng dân ngày càng phân tán; những lúng túng, không nhất quán
hay không rõ ràng trong đối sách của lãnh đạo đối với Trung Quốc càng làm cho
nhân dân mất tin tưởng; Đảng lãnh đạo lại ở trong thời kỳ thoái hóa nghiêm
trọng nhất trong lịch sử của mình về chính trị và tính tiền phong chiến đấu, và
hệ thống chính trị đang tha hóa trầm trọng.
Có thể
nói sau 37 năm độc lập thống nhất, chưa bao giờ đất nước lâm nguy như bây giờ,
Đảng yếu kém như bây giờ.
Giải
quyết những khó khăn nội tại để mở ra một thời kỳ phát triển cho đất nước, tạo
sức mạnh đối xử thành công mối quan hệ với Trung Quốc với tư cách nước ta là
một đối tác được tôn trọng chứ không phải là một nước lệ thuộc hay một chư hầu
kiểu mới, nhất là để Việt Nam không một lần nữa và vĩnh viễn không bao giờ trở
thành chiến địa cho sự tranh hùng của các siêu cường, nắm bắt cơ hội chưa từng
có trong bối cảnh quốc tế hôm nay làm cho Việt Nam hưng thịnh trở thành một
thành viên tích cực của cộng đồng quốc tế dấn thân cùng với cả nhân loại tiến
bộ, vì hạnh phúc và phát triển của chính quốc gia mình và của cả thế giới… Làm
sao Việt Nam có thể thực hiện được những nhiệm vụ sống còn và có ý nghĩa vô
cùng trọng đại ấy, nếu đất nước không có một thể chế chính trị dân chủ, thực
hiện được hòa giải đoàn kết dân tộc, phát huy tối đa sức mạnh dân tộc, tranh
thủ được sự hậu thuẫn của tất các các quốc gia, các lực lượng tiến bộ trên thế
giới – kể cả trong lòng nhân dân Trung Quốc?
Tất cả
những vấn đề nghiêm trọng sống còn đối với đất nước vừa trình bầy trên làm sao
xử lý thành công được, nếu đất nước không có một thể chế chính trị dân chủ,
thực hiện được hòa giải đoàn kết dân tộc, để cả nước làm được những việc phải
làm, cho bây giờ và cho mãi mãi về sau?
Tất cả
những vấn đề nghiêm trọng sống còn vừa nêu trên chẳng lẽ không mảy may liên
quan đến việc sửa đổi Hiến pháp hiện nay?
Chẳng
lẽ ĐCSVN hôm nay không còn đủ tính tiền phong chiến đấu, để nhận thức được
những vấn đề sống còn như thế đang đặt ra cho đất nước, không có trí tuệ và ý
chí bắt tay vào nhiệm vụ phải làm như Đảng đã từng làm khi tiên phong khai phá
con đường cứu nước?
Đảng
phải tìm cho mình câu trả lời: Làm hay không làm? Làm thế nào? Trả
lời thế nào, Đảng tự phơi bầy mình ra là thế nấy, chẳng có thế lực thù địch nào
xuyên tạc nổi.
Còn
nhân dân – qua không biết bao nhiêu kiến nghị, thư, lời kêu gọi… gửi cho Đảng…
ít nhất từ 3 Đại hội Đảng toàn quốc liên tiếp cho đến nay – nghĩa là từ 15 năm
nay – đã đặt ra cho mình những câu hỏi đúng, các câu trả lời đúng.
III. Đề
nghị của người viết bài này với nhân dân và các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước
Có thể
vì không thấy hết tầm vóc các việc phải làm cho sửa đổi Hiến pháp, hoặc là bị
khuôn vào những nguyên tắc chỉ đạo của Tổng bí thư như sửa gì thì
cũng phải trong khung khổ Cương lĩnh và Điều lệ Đảng, quyền lực của hệ thống
chính trị là thống nhất, không có tam quyền phân lập, gác lại vấn đề sở hữu đất
đai.., nên kế hoạch sửa đổi Hiến pháp như đang tiến hành vừa sơ sài về
nội dung, (nặng về hình thức, chiếu lệ và không đi vào thực chất), coi như
chẳng liên quan gì đến những nhiệm vụ trọng đại và nóng bỏng của đất nước
trong giai đoạn hiện tại và xa hơn nữa, vừa không được bố trí đủ thời gian công
sức lẽ ra phải đầu tư… Làm như thế làm sao mong được kết quả thực chất?
Hơn
nữa, chỉ đạo như thế là đứng trên, là ban cho, là ông
chủ của nhân dân, là đứng trên Hiến pháp mất rồi!
Ai mà
không hiểu Hiến pháp viết như thế nào là quyền của nhân dân chứ! Lãnh đạo ở đây
chỉ có một nghĩa, một nội dung duy nhất là giúp người dân có tri thức và quyền
năng thực hiện tốt nhất quyền chủ nhân ông đất nước và sự lựa chọn của họ. Làm
khác đi là ốp, là cưỡng bức.
Cũng
nhân đây xin nói ngay, hàng ngày Bộ Chính trị có không ít những chỉ
đạo như thế.
Có ít
nhất 3 thiếu sót quan trọng cần chú ý khắc phục ngay trong quá trình tiến hành
sửa đổi Hiến pháp lần này:
(1)
Thiếu hẳn khâu chuẩn bị cho nhân dân, ví dụ không thông tin thông báo cho nhân
dân:
-
thực trạng đất nước, những thách thức và đòi hỏi cho giai đoạn phát triển mới,
để suy nghĩ Hiến pháp sửa đổi lần này cần phải thiết kế như thế nào, phải đáp
ứng thế nào những yêu cầu mới của đất nước về đối nội, đối ngoại, phát triển…
-
gợi ý những vấn đề trọng đại nào trong Hiến pháp cần tập trung huy động trí tuệ
và lấy ý kiến của nhân dân, hướng kiến nghị sửa đổi của Ban soạn thảo…
-
vân vân…
(2) Về
phía Đảng cũng coi việc sửa đổi Hiến pháp là một công việc cắt rời như đã cài
sẵn trong lập trình để ở máy tính, nghĩa là chẳng dính dáng gì đến việc phải
cải cách hay thay đổi Đảng như thế nào. Mà như thế, như đã nêu trong phần II:
giả thử Hiến pháp được sửa thật tốt thế nào đi nữa, nhưng nếu hệ thống
chính trị vẫn y nguyên, cái gì sẽ chờ đợi đất nước?
(3) Hầu
như không có sự chuẩn bị gì cho việc nâng cao dân trí và quyền năng của nhân
dân, để nhân dân có thể làm tốt quyền và nghĩa vụ công dân của mình trong việc
góp ý kiến vào Hiến pháp, trong việc thực hiện quyền phúc quyết… Cũng xin nói
ngay, không thực hiện nghiêm túc với chất lượng cao quyền thảo luận tham gia ý
kiến và quyết định (nhất là đối với những vấn đề quan trọng), quyền phúc quyết
của nhân dân, Hiến pháp sửa đổi hay Hiến pháp mới sẽ giảm hẳn giá tri cũng như
khả năng thực thi.
Quá
trình soạn thảo sửa đổi Hiến pháp hay xây dựng Hiến pháp mới lẽ ra nhất thiết
còn phải là lúc làm cho cả nước có cơ hội học tập để nâng cao hiểu biết, nâng
cao quyền năng của công dân, giác ngộ nhân dân những vấn đề trọng đại của đất
nước, gắn bó người dân hơn nữa với vận mệnh đất nước… Nhà nước pháp quyền chính
đáng nào mà lại không mong muốn công dân của mình có trình độ giác ngộ cao nhất?
Vân
vân…
Ngoài
ra, cá nhân người viết bài này xin có những đề nghị như sau:
1. Nếu
chỉ sửa đổi sơ sơ như dự thảo đã công bố, thì nên tạm dừng lại chưa đi tới phần
kết thúc như thời khắc biểu đã định, riêng việc lấy ý kiến nhân dân phải tiến
hành có chất lượng và nên kéo dài tới cuối năm 2013, để có thời gian bổ khuyết
3 việc còn sót chưa làm nói trên.
2.
Trong khoảng thời gian kéo dài thêm, nên thực hiện ngay một số Điều đúng, đã có
sẵn trong Hiến pháp 1992, như các Điều quy định các quyền về tự do, dân chủ của
công dân, quyền con người, về tự do ngôn luận, về báo chí..; đình chỉ ngay mọi
hoạt động có tính chất khủng bố, trấn áp, hay đàn áp nhân dân, thả ngay những
người bất đồng chính kiến đang phải thụ án tù hay đang bị xét xử, làm ngay một
số việc khác như 71 trí thức đã nêu trong kiến nghị ngày 06-08-2012.
3. Bãi
bỏ việc sửa đổi Hiến pháp theo kiểu chắp vá như đang làm, đặt vấn đề
xây dưng Hiến pháp mới lần này là một trong những bộ phận quan trọng
nhất của chương trình cải cách triệt để và toàn diện chế độ chính trị của đất
nước.
4. Lãnh
đạo Đảng và Nhà nước phát huy trí tuệ và tâm huyết cả nước xây dựng chương
trình cải cách toàn diện hệ thống chính trị, kế hoạch và lộ trình thực hiện.
Thông qua cuộc cải cách chính trị này Đảng thực hiện cải tổ lại chính mình cả
về đường lối, về tổ chức để trở thành Đảng của dân tộc phù hợp với những tiêu
chí của một nhà nước pháp quyền dân chủ.
5.
Thông qua cải cách chính trị lần này Đảng trang trải hai món nợ, hai nhiệm vụ
lịch sử đối với nhân dân, đối với tổ quốc mà Đảng đã để trễ 37 năm sau khi đất
nước độc lập thống nhất:
- Xây
dựng một thể chế chính trị dân chủ của nhà nước pháp quyền để thực hiện quyền
làm chủ của nhân dân.
- Thực
hiện hòa giải đoàn kết dân tộc để phát huy tối đa sức mạnh toàn diện của đất
nước.
IV. Vài
suy nghĩ thay lời kết
Qua cải
cách chính trị lần này, một nước Việt Nam dân chủ ra đời[2] từ nước Việt Nam độc
lập thống nhất kể từ 30-04-1975 – nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
– đấy sẽ là sự đổi đời của chính nước ta, để từ nay và mãi mãi mở mày mở mặt
cùng đi được với cả thiên hạ, để có khả năng là bạn và là đối tác được tôn
trọng của cả thiên hạ. Song sự kiện này sẽ làm thế giới chấn động, vì nó góp
phần củng cố hòa bình, có lợi cho hợp tác và cùng phát triển ở Đông Nam Á, với
nhiều ảnh hưởng lan tỏa rất khích lệ cho cái thiện, cái tốt ở mọi nơi. Có thể
nói ngay, cả thế giới sẽ vui mừng với chúng ta – trong đó có không ít những bộ
phận nhân dân trong lòng đất nước Trung Quốc. Còn Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa
chắc chắn sẽ không như thế. CHNDTH sẽ như thế nào, điều này còn tùy thuộc vào
nhiều thứ dễ thấy ngay từ bây giờ… Song việc nước ta phải làm thì nước ta cứ
phải làm, đủ sức làm, và làm được, chẳng lẽ cứ phải ngó nghiêng hay xin phép
Trung Quốc? Mà dù ta có ngoan ngoãn, ngó nghiêng hay xin phép… chắc gì được yên
thân? Khi cần và thấy trên bàn cờ quốc tế là có thể – bất kể là ta yếu hay
mạnh, cương hay nhu, ngoan hay bướng… – thì CHNDTH vẫn sẵn sàng ra tay đối với
ta, lần nào cũng rất rắn. Chiếm Hoàng Sa của ta năm 1974 là như thế, cuộc chiến
tranh Campuchia và cuộc chiến tranh đánh ta tháng 2-1979 là như thế, lấy thêm
một số đảo của ta ở Trường Sa năm 1988 là như thế, bây giờ đang muốn lấn chiếm
ta tiếp trên Biển Đông cũng là như thế – giữa lúc ta vẫn đang gồng lên nhẫn
nhục gìn giữ đại cục, 4 tốt và 16 chữ đấy thôi!..
Nhưng
nếu ta không quyết tâm đổi đời đất nước lần này, chắc chắn nước ta sẽ rơi
sâu hơn nữa không có lối thoát vào con đường nô dịch của siêu cường Đại Hán như
đã vương vào từ Hội nghị Thành Đô năm 1990 đến nay gỡ chưa ra. Không chỉ có
thế, rơi vào vòng tay Trung Quốc, nước ta một lần nữa sẽ trở thành chiến địa
mới của nhiều nước, nội chiến cũng sẽ nổ ra trong lòng tổ quốc chúng ta!
Song
làm sao thực hiện được cuộc đổi đời như vậy của đất nước, nếu không có sức mạnh
của trí tuệ và từ trong tâm huyết và ý chí của hòa giải đoàn kết dân tộc?
Cần nói
thẳng thắn với nhau hòa giải đoàn kết dân tộc như thế đến nay vẫn hầu như là
không thể, nhưng lại là đòi hỏi tất yếu, là đòi hỏi đầu tiên để đổi đời đất
nước.
Làm sao
có thể thực hiện được sự hòa giải đoàn kết dân tộc như thế đã để muộn mất 37
năm rồi, nếu không có một thể chế chính trị dân chủ của đất nước làm cái nôi
sinh thành và nuôi dưỡng nó?
Về
ĐCSVN tôi muốn nói thế này: Chắc chắn người Việt Nam nào có ý thức với đất nước đều
thiết tha mong mỏi một cuộc đổi đời của đất nước như vậy. Đấy chính là cái đích
ngàn đời mà vì nó cả nước đã đi theo Đảng bước vào Cách mạng Tháng Tám. Chẳng
lẽ nào bây giờ đứng trên đỉnh cao của quyền lực, Đảng không còn khả năng nhận
ra cái đích này? Và chỉ vì thế, có phải là Đảng muốn tự chọn con đường đối
kháng với cái đích ngàn đời mong ước này của dân tộc hay không?
Không
ai có thể thay Đảng trả lời câu hỏi này.
Bốn
cuộc chiến tranh, khoảng 7 triệu sinh mạng người dân nước ta (có số liệu nói 10
triệu) bị cướp đi, cùng với biết bao nhiêu tổn thất khác không bao giờ lấy lại
được nữa, những vết thương trong lòng dân tộc như đang muốn không bao giờ lành
lại nữa, gần một nửa thế kỷ[3] đất nước chìm đắm
trong khói lửa giữa lúc thế giới đi lên đỉnh cao phát triển mới, rồi những sai
lầm đổ vỡ do chính tự tay ta bên này và bên kia gây nên…
Chừng
nấy mất mát và đau thương còn chưa đủ hay sao nếu để xảy ra đổ vỡ nồi da xáo
thịt một lần nữa?
Chừng
nấy mất và đau thương còn chưa đáng để toàn dân tộc ta nắm tay nhau hòa giải và
cùng nhau bước về phía trước?
Chừng
nấy mất mát và đau thương không đáng để cho mỗi người Việt chúng ta khép lại
quá khứ, không ngoái lại quá khứ, cùng đoàn kết giúp nhau dấn lên, đổi đời
chính mình, và đổi đời của đất nước hay sao?
Cuối
cùng, xin nói lời đề nghị quan trọng nhất:
Tôi
thiết tha mong từng người dân Việt chúng ta học lại quá khứ của chính mình, của
đất nước – học tất cả, để hiểu những điều tốt và xấu, thành và bại, ác và
thiện, cái ngu dốt và sự minh triết, sự thù hận và lòng khoan dung… Không chờ
và không cần ai ban bảo mình hay nhồi nhét cho mình học cái gì! Mà hãy đem tất
cả nỗi thương đau của chúng ta về số phận đất nước, đem tất cả ý chí của mình
mong mỏi đổi đời đất nước, để tự tìm tòi học lại tất cả những cái phải học, học
thêm những cái mới…
Xin hãy
học tất cả những điều phải học như thế, trước hết để chiến thắng chính mình, chiến
thắng nỗi sợ và những yếu kém của mình. Học như thế để đổi đời của chính mình
và quyết tâm cùng nhau đổi đời đất nước.
Bởi vì:
Thực hiện bằng được hòa giải dân tộc để cứu tổ quốc đang lâm nguy, mở ra một
thời kỳ phát triển mới của đất nước là trách nhiệm thiêng liêng không của riêng
một ai trong cộng đồng dân tộc Việt Nam chúng ta!
Nguyễn
Trung
Hà Nội
– Võng Thị, ngày 14-01-2013
[1] Xin đừng lúc nào quên
một thời nhân dân dành cho Đảng quyền lãnh đạo, song chưa bao giờ có chuyện
nhân dân của một nước độc lập dân là chủ lại dành cho Đảng quyền lực cai quản
đất nước, Đảng cũng chưa bao giờ dám ghi vào Cương lĩnh và Điều lệ của mình việc
giành quyền lực như thế – vì sẽ danh không chính ngôn không thuận, mặc dù Đảng
làm việc này với tất cả.
[2] Tôi không dám lạm bàn
về tên gọi của quốc gia, vì đấy sẽ là quyền của nhân dân, khi nào được hỏi tôi
sẽ nói đề nghị của mình.
[3] 1945 –1989, khi
kết thúc chiến tranh Campuchia.
Tác giả
gửi cho viet-studies ngày 14-1-13
Nguồn: viet-studies
Theo Tễu blog
Nhận xét