Hoa Trinh nữ
Thứ Sáu, ngày 14/12/2012 - 11:30 (GMT+7)
PNTB:Trên blog Congthe gọi Nguyễn Văn Cự là "tri phủ văn chương". Chả là đã một thời anh làm chủ tịch, rồi bí thư huyện ủy nhưng vẫn tranh thủ viết văn. Nguyễn Văn Cự quê ở đất "ông Cò", có lẽ vậy nên ngấm máu văn chương. Nói nôm na là chất nhân văn trong anh đã khiến một ông "tri phủ" cũng không cưỡng lại được cái nghiệp "viết lách" về thân phận những con người. Nguyễn Văn Cự tuy chưa phải hội viên Hội nhà văn Việt Nam nhưng anh đã có 2 tập tiểu thuyết, nhiều truyện ngắn, truyện thiếu nhi...
Anh vừa gửi cho Phó nhòm tây bắc truyện ngắn Hoa trinh nữ
Đã lâu rồi,
tôi mới lại có dịp đi tàu hoả về quê ăn tết. Qua một đêm ngồi tàu, hành khách
đều mệt mỏi. Cả không gian hình như chỉ còn có tiếng gõ đều đặn của con tàu.
Bỗng có tiếng mời thuốc, mời nước ở đầu toa, tôi chờ để uống một chén cho tỉnh
ngủ. Uống xong, khi trả chén cho cô hàng nước, tôi chợt nhận ra cô đang nhìn
tôi thì phải. Lấy tiền ra trả thì cô ta lại ấn cả ấm vào tay tôi và bảo: “Anh
khát thì cứ uống đi!”.
Nói rồi, cô ta
vội vã quay về cuối đoàn tàu. Tôi không kịp nói gì, tay cầm ấm, chén mà ngỡ
ngàng lúng túng. Một lúc sau trấn tính lại, và tôi chợt nhận ra một nét rất
quen qua cái nhìn ấy. Ừ!... Đôi mắt ấy… Cả người tôi nóng lên như có một dòng
điện chạy qua. Thôi! Đúng là Trinh rồi, khuôn mặt có gầy đi, mái tóc đã vương
vấn bụi trần, nhưng ánh mắt ấy thì không thể nào khác được. Tôi bàng hoàng cả
người. Bất giác những kỷ niệm của một thời choáng ngợp cả tâm trí của tôi.
… Ngày ấy…
chúng tôi là bạn học của nhau. Phố huyện của tôi nghèo lắm! Gọi là phố, nhưng
cũng chỉ như một làng nhỏ ở miền xuôi. Mọi người trong phố sống với nhau đầm ấm
như những làng quê. Là năm học cuối cấp III, nên chúng tôi thường gép đôi với
nhau. Mọi người thường bảo, tôi với Trinh là đẹp đôi nhất! Trinh có đôi mắt đẹp
như mắt Đức mẹ đồng trinh. Có cái nhìn đằm thắm và tha thiết lạ thường. Một lần
tan học, Trinh bảo tôi: “Hôm nay nhà mình đi vắng cả, về nhà mình ăn cơm đi!”.
Dọn cơm xong,
nhưng tôi thấy trên mâm cơm chỉ có một bát và một chiếc thìa. Trinh xới cơm đưa
cho tôi. Tôi đói quá, muốn vồ lấy bát cơm ăn ngay, nhưng cố kìm lại và lưỡng lự
hỏi: “Thế còn bát của trinh?”. Trinh không nói, chỉ nhìm tôi tủm tỉm cười:
“Thôi, đói thì cứ ăn đi!”. Và thế là tôi cắm cúi ngồi ăn… Ăn xong Trinh giót
cho tôi một chén nước. Có điều trình cầm chén lên và uống đi một nửa rồi mới
đưa lại cho tôi. Ánh lửa bập bùng làm cho mắt Trinh sóng sánh. Tôi ngây ngất
nhìn Trinh, như người leo dốc hụt hơi, muốn nói mà không sao nói được. Tôi lơ
đãng cầm lấy uống luôn mà không hề nghĩ đằng sau động tác ấy có ẩn ý gì không?
(Sau này nghĩ lại tôi mới biết, hôm ấy Trinh muốn cùng tôi ăn chung một thìa,
một bát như cùng uống chung chén nước).
Đêm ấy về nhà, tôi nghĩ ra bao nhiêu là câu
nói hay, để mai đến trường nói với Trinh. Nhưng khi gặp Trinh, tôi không còn
nhớ ra một điều gì nữa. Mãi đến lúc tan học trên đường về nhà, tôi mới hỏi nhỏ:
“Hôm qua Trinh đói lắm phải không?”. Trinh đấm tôi thùm thụp: “Người đâu mà ngố
thế?”…
Cuối năm học
ấy, cũng là lúc chúng tôi đủ tuổi tham gia vào tổng động viên chỗng Mỹ cứu nước.
Ngày sắp lên đường, chúng tôi thường rủ nhau ra đứng trên cầu phố huyện để tâm
sự, vì chỉ có nơi ấy với chúng tôi là thơ mộng hơn cả. Những ngày đầu thu, gió
nhè nhẹ thổi; nước dưới sông lấp lánh như ánh bạc; thỉnh thoảng lại có một vài
đám mây chạy lang thang trên bầu trời cao vời vợi; sương đầu mùa mỏng tang như
lụa càng làm cho không gian thêm huyền ảo. Trinh nép vào người tôi và trao cho
tôi một tấm khăn vải, trên đó có thêu một nhành hoa trinh nữ. Trinh nữ là một
loài hoa dại, nó không đẹp khi đem cắm vào lọ, nhưng nó lại đẹp đến mê hồn nếu
ta được ngắm cả một cánh đồng trinh nữ đang độ nở hoa. Trinh thường ước ao có
một sức sống mãnh liệt như loài hoa trinh nữ này. Và ký ức về loài hoa trinh nữ
trong tôi từ đó trở thành một kỷ niệm đẹp không thể phai mờ.
Huấn luyện
xong là chúng tôi được đưa ra chiến trường ngay. Tôi may mắn được trở ra Bắc
làm liên lạc cho một đơn vị nhận quân. Địa điểm nhận quân lại chính là quê
hương của mình. Được lãnh đạo cho về thăm nhà mấy hôm. Tối đó, tôi cùng Trinh
lặng lẽ cầm tay nhau đi dọc theo bờ sông phố huyện. Trinh trầm ngâm, tựa sát
vào tôi. Linh cảm trong tình yêu mách bảo tôi sẽ có một điều gì đó… Bỗng Trinh
ôm chầm lấy tôi nói khẽ: “Tối nay…, tối nay… chúng mình ở lại với nhau bên bờ
sông này nhé!”. Tôi lưỡng lự: “Nhưng…, nhưng…”. Trinh dứt khoát: “Không nhưng
gì cả, ngày kia là họ đến ăn hỏi rồi”. Tôi bàng hoàng: “Sao ?.. Ăn hỏi ai? Có
liên qua gì đến chúng mình?”. Trinh vẫn ôm chặt lấy tôi: “Chuyện dài lắm! Họ ăn
hỏi thì kệ họ, em chỉ yêu mình anh thôi, chờ anh bao lâu em cũng chờ được”.
Thực tình
chúng tôi mới chỉ yêu nhau theo cách yêu của tuổi học trò, còn tình yêu đôi lứa
thì cũng chỉ như nụ hoa chớm nảy trên cành. Cái tuổi 19 của tôi được nắm tay
một người con gái đã là tiểu thuyết lắm rồi. Tôi thấy sợ… mặc dù cái khát vọng
được yêu trong tôi như một ma lực, tôi cũng ôm chặt lấy Trinh… Cùng lúc ấy,
dưới sông đám thuyền chài cũng bắt đầu về bến. Tôi và Trình rời nhau. Tôi nói
nhỏ: “Thôi ở đây không tiện, tối mai kể cho anh nghe nhé”.
Trời vào thu,
mùa thu hoạch qua đi nên kho hợp tác trống không, tôi hẹn Trinh tối mai tới đó.
Cũng không ngờ rằng đây là một khoảng khắc cuối cùng êm đềm nhất chúng tôi được
ở bên nhau. Chiến tranh như một lực đẩy vô hình đưa dần chúng tôi ra đầu xa
cách.
Tối sau, vừa
đến đống rơm của nhà kho chúng tôi đã quấn quýt bên nhau, tưởng như trời sinh
ra thế gian này chỉ là sở hữu của riêng mình. Bỗng có tiếng chân người và một
chuỗi âm thanh nặng chịch phát ra trong cổ họng: “Con này giỏi thật, dám bỏ nhà
theo giai à?”.
Trinh bật
người đứng dậy: “Anh chạy đi! Bố em đấy!”. Tôi chưa kịp phản ứng gì thì ông đã
sấn vào nắm lấy tay Trinh. Tôi vội nói; “Thưa bác lỗi là tại cháu, trinh không
có lỗi gì đâu ạ!”. Ông gạt tôi ra dằn giọng: “Anh tránh ra để tôi dạy con
tôi!”. Nói rồi, ông lao vào góc kho, lấy chiếc đòn cân lúa bằng gốc tre đực,
nhằm thẳng vào trinh mà vụt. Tôi vội kêu lên: “ Trinh chạy đi!”. Nhưng Trinh
vẫn đứng như trời trồng. Và sau đó, tôi chỉ còn biết làm như một cái máy, lao
đầu vào người ông, cây gậy văng ra, ông ngã ngửa vào đống rơm. Tôi vác Trinh
chạy một mạch ra bãi soi bên bờ suối….
Hôm sau ra xe
trở về đơn vị, biết trinh không đến tiễn được, nhưng tôi vẫn mong, vẫn đợi. Khi
xe chạy ra đến đầu phố huyện, thấy một một người con gái mặc áo màu tím hoa cà
đứng vẫy nón bên đường, mắt tôi nhoè đi vì sung sướng! Người con gái đó là
Trinh. Tôi nhoài người ra cửa xe: “Trinh!.. Anh đây!... Tôi cứ nhoài người như
vậy cho đến khi bóng Trinh khuất vào bóng núi.
Tàu về đến ga,
tôi vội xuống tìm Trinh. Nhưng… Trinh đã lên đoàn đoàn tàu chạy ngược. Ở cửa
tàu, tôi vẫn còn kịp nhận ra một bóng người mặc áo màu tím hoa cà, bóng em nhoè
dần, nhoè dần… Tôi chợt tỉnh đi về cửa ga, thầm nghĩ: “Đời tôi và Trinh cũng
giống như những con tàu, vội vã đến ga rồi lại vôị vã ra đi…”
Mồng hai tết,
tôi đến thăm mẹ Trinh. Tôi chúc tết và mừng tuổi bà theo phong tục. Bà cảm ơn
tôi, rồi nói: “ Nhìn Anh thì tôi không nhận ra, nhưng nghe giọng nói, tôi biết
ngay anh là bạn của con trinh thời trước!”.
Thế rồi bà cứ nói, hình như lâu lắm bà không
được giãi bày với ai. Bà nói: “Bác nói chuyện cũ nó buồn, nhưng anh thông cảm,
bác nói là nói hộ cho con Trinh. Cái hôm ông ấy nhà tôi bắt gặp anh và con
Trinh ở nhà kho, về nhà nó run lẩy bẩy, cứ ôm lấy mẹ mà khóc. Ông ấy chẳng nói
chẳng rằng, cầm con dao vót nan đặt lên bàn, uống hết nửa chai rượu, rồi gọi
bác và con Trinh ra. Hai mẹ con đứng nép vào cây cột này. Ông ấy đứng lên giơ
thẳng con dao nhằm hướng trên đầu vợ con mà chém. Bác ấn con trinh ngồi thụp
xuống thì con dao cũng bập vào cột. Ông ấy lắc đi lắc lại một lúc mới gỡ được
con dao ra khỏi cột. Để con dao xuống bàn, ông ấy nói dằn từng tiếng: Khi nào
vết chém trên cột này liền thì tôi mới thay lời ước hẹn!”.
Lời ước hẹn
của bố Trinh thì tôi đã biết: Chuyện nói lại thì dài, nhưng đấy là lời hứa gả
con cho nhau của hai người bạn. Không ngờ lời hứa ấy lại là tai hoạ cho mối
tình đầu của tôi và cho cuộc sống của Trinh sau này. Trinh kiên quyết từ chối
đám ăn hỏi do bố sắp đặt. Còn tôi sau khi vào lại chiến trường, trong một trận
đánh bom, tôi bị thất lạc … và đã có báo tử về địa phương. Di vật của tôi gửi
về có cả tấm khăn thêu nhành hoa trinh nữ mà Trinh tặng tôi lúc lên đường.
Trinh sang nhà tôi xin phép bố mẹ tôi để thắp nén hương cho tôi. Sau đó ba năm,
như một định mệnh, Trinh vẫn phải lấy người chồng do bố sắp đặt…
Tôi ngước mắt
nhìn lên cột nhà, nơi có vết chém, nhưng vết chém hình như đã liền! Thấy vậy
tôi lượng lữ hỏi bà: “Thưa bác thế còn…?”.
Ba hiểu ý tôi và giải thích: “ Ầ! Thằng chồng con Trinh sau này không
ngờ lại thành một người hư hỏng… Ông ấy nhà tôi ân hận quá, tự tay nấu sáp ong
gắn vào vét chém trên cột. Lúc sắp chết cho gọi con Trinh về, không nói được
nữa, nhưng vẫn còn kịp cầm tay nó và chỉ vào vết chém trên cột. Con Trinh nhìn
theo, nó hiểu: ông ấy nhà tôi đã thay lời ước hẹn… rồi gục xuống ôm lấy bố mà
khóc!...
Tôi như vừa
trải qua một giấc mơ… Trời ơi! Nếu như không nhìn thấy Trinh trên tàu, nếu như
không đến thăm mẹ Trinh thì với tôi, những chuyện này sẽ mãi mãi như hòn đá vô
tình trơ trơ bên bờ suối. Trinh là như vậy! Những người ở phố huyện quê tôi là
như vậy! Thì ra con người ta chỉ chưa hiểu nhau thôi, chứ thực lòng thì ai cũng
muốn sống tốt với nhau.
Trên đường về
nhà, tôi thả cho tâm hồn vương vấn với những kỷ niệm xa xưa: đây là con đường
chúng tôi thường đi học về; kia là bến sông đầu phố, con đò cũ được thay bằng
cây cầu treo, xa xa như điểm vào không gian một đường cong huyền diệu; ngoài
bãi sông là ngút ngàn những vạt hoa trinh nữ đang nảy lộc vào xuân… Gần 30
năm!... những dấu ấn của không gian, của cuộc đời cũng đã phôi pha, chỉ còn có tình
yêu của con người ở nơi này là vẫn còn xanh như cánh rừng xa phía chân trời!...
--------------------
Nhận xét