Về Dự thảo sửa đổi Luật đất đai.
Sở hữu đất đai: Để dân
phúc quyết
Nguyễn Quang A*
Khái niệm đất đai
thuộc sở hữu toàn dân là hư vô, nhà nước đại diện chủ sở hữu là mâu thuẫn. Đó
là nội dung cơ bản của ý kiến của đại biểu Quốc hội Hà Sỹ Đồng (Quảng Trị) tại
phiên thảo luận về dự thảo Luật đất đai ngày 19-11-2012.
Ý kiến này không khác
ý kiến của ông Dương Trung Quốc đã nêu ra từ lâu trên diễn đàn Quốc hội: quyền
sở hữu toàn dân là hư quyền. Trong phiên thảo luận trên có 52 đại biểu Quốc hội
đóng góp ý kiến. Tuyệt đại đa số đồng ý với quy định hiện hành, được khẳng định
lại trong dự thảo Luật đất đai: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại
diện chủ sở hữu”. Cũng có một số đại biểu có vẻ nhất trí với sở hữu toàn dân
trong câu mào đầu nhưng nội dung phát biểu lại toát ra là về cơ bản họ cũng
nghĩ như đại biểu Hà Sĩ Đồng. Đó là các ý kiến của các đại biểu Bùi Mạnh Hùng
(Bình Phước), Huỳnh Minh Hoàng (Bạc Liêu), Đỗ Văn Vẻ (Thái Bình). Ý kiến của
ông ông Hà Sỹ Đồng chiếm chưa đầy 2%, nếu tính cả 3 vị sau cũng chỉ đạt 7,7% số
ý kiến. Nếu ông Dương Trung Quốc vẫn giữ ý kiến của mình, thì những người có ý
kiến như các ông vẫn chiếm thiểu số rất nhỏ.
Nhưng ý kiến đa số,
dẫu là tuyệt đại đa số, hoàn toàn không có nghĩa là ý kiến đó đúng, đại diện
cho ý chí của nhân dân. Lịch sử thế giới và lịch sử nước ta đã chứng kiến vô
vàn ý kiến đa số là sai.
Nhận ra tầm quan trọng
của Luật đất đai, nên phiên thảo luận ngày 19-11-2012 của Quốc hội đã được
truyền hình trực tiếp và người ta cũng hứa sẽ lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân.
Phải nhắc lại, khái
niệm sở hữu toàn dân về đất đai là khái niệm xa lạ, mới chỉ được biết đến ở
Việt Nam
từ ngày 18-12-1980 (Điều 19 Hiến pháp 1980). Trước đó khái niệm ấy không tồn
tại suốt hàng ngàn năm lịch sử của Việt Nam và cũng rất hiếm thấy trên thế
giới. Khái niệm này được vay mượn từ Liên Xô, trước khi Liên Xô tan rã khoảng
một thập kỷ, và mới chỉ tồn tại ở nước ta 31 năm qua. Ở Việt Nam trước đây
và ở hầu hết các nước trên thế giới, thường có 3 loại quyền sở hữu đất rạch
ròi: sở hữu nhà nước (chứ không phải toàn dân); sở hữu cộng đồng; sở hữu tư
nhân (của cá nhân và tổ chức tư nhân).
Việc thu hồi đất của
ông Đoàn Văn Vươn
đã gây ra quá nhiều hệ lụy. Ảnh: TL
Chỉ có các thể nhân và
pháp nhân (nói nôm na là các đối tượng có thể bị kiện) mới có thể là chủ sở hữu
của bất cứ thứ gì. Nhà nước, các tổ chức có tư cách pháp nhân là các pháp nhân,
các cá nhân là các thể nhân và họ có thể và chỉ họ mới có thể là các chủ sở
hữu. Toàn dân nghe có vẻ cao sang nhưng không là pháp nhân cũng chẳng là thể
nhân nên không thể là chủ sở hữu được. Phần rất lớn đất đai, hầm mỏ thuộc sở
hữu nhà nước, hãy ghi nhận điều đó và đừng đánh tráo khái niệm thành sở hữu
toàn dân. Như thế ông Dương Trung Quốc và ông Hà Sỹ Đồng hoàn toàn đúng và đa
số thì sai.
Nhiều người cho rằng
giữ nguyên quy định cũ là hợp với Hiến pháp, hợp với dự thảo Hiến pháp sửa đổi.
Rất đáng tiếc chúng ta chưa có hiến pháp theo đúng nghĩa, tuy có một văn bản
gọi là Hiến pháp do Quốc hội thông qua. Cần có những thảo luận sâu rộng về Hiến
pháp, về lập hiến và chủ nghĩa hiến pháp. Đã có nhiều ý kiến đặt vấn đề phúc
quyết của nhân dân đối với Hiến pháp.
Hãy để cho nhân dân
quyết định và việc phúc quyết phải được tổ chức theo các thủ tục minh bạch, có
các lựa chọn khả dĩ được trình bày mạch lạc, được thảo luận công khai trong một
khoảng thời gian đủ để người dân tham gia và hình thành quyết định của mình.
Thiếu sự thảo luận, thiếu các lựa chọn khả dĩ được trình bày mạch lạc, và nhất
là thiếu thủ tục bỏ phiếu minh bạch, thì mọi sự “phúc quyết” đều vô nghĩa.
Nếu Đảng Cộng sản Việt
Nam, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thật sự coi trọng quyết
định của nhân dân, tôi đề nghị hãy để dân quyết định về sở hữu đất đai với 2
lựa chọn khả dĩ: a) đất đai thuộc sở hữu toàn dân (như dự thảo Hiến pháp và dự
thảo Luật đất đai); và b) có đất thuộc sở hữu nhà nước, có đất thuộc sở hữu
cộng đồng và có đất thuộc sở hữu tư nhân (của cá nhân, tổ chức tư nhân).
Tương tự, một số điều
hết sức căn bản khác của Hiến pháp mà nhiều người cho là “nhạy cảm” cũng nên để
nhân dân thảo luận rộng rãi, hình thành các lựa chọn khả dĩ khác nhau được
trình bày thật mạch lạc và sau đó đưa ra trưng cầu dân ý (về từng lựa chọn) để
nhân dân phúc quyết. Nếu chỉ có một lựa chọn thì nêu rõ: đồng ý hay không đồng
ý.
Những lựa chọn nào
được đa số cử tri tán thành được ghi vào hiến pháp, những lựa chọn bị đa số
nhân dân bác bỏ thì không được đưa vào dưới bất cứ hình thức trá hình nào.
Về thủ tục phúc quyết,
quan trọng nhất là vấn đề bỏ phiếu và kiểm phiếu. Phải công khai, minh bạch, có
sự giám sát mọi chi tiết (trình bày các lựa chọn; lập phiếu xin ý kiến nhân
dân; tổ chức; kiểm phiếu; công bố kết quả; vân vân) bởi các đại diện khác nhau
của nhân dân và báo giới (thậm chí của quan sát viên quốc tế, thí dụ của Liên
Hiệp Quốc). Joseph Stalin đã từng nói đại ý “không quan trọng là những ai bỏ
phiếu, quan trọng là ai là những người kiểm phiếu”. Chúng ta không nên và không
thể “học” Stalin, Liên Xô về những thủ đoạn này.
Tất cả quyền lực thuộc
về nhân dân. Ai cũng nói như vậy. Hãy để người dân thực sự quyết định số phận
của mình bằng cách tham gia tích cực vào các cuộc thảo luận về Hiến pháp, về
các luật cơ bản của đất nước chứ không chỉ riêng về luật đất đai.
Làm được như vậy hay
chí ít có một lộ trình rõ ràng để làm như vậy sẽ khơi dậy các nguồn lực to lớn
của nhân dân để xây dựng một “nhà nước của dân, do dân và vì dân” thực sự.
N.Q.A
Ghi chú: những chữ màu đỏ là
bị cắt bỏ từ bản gốc khi biên tập.
Nguồn: Ba Sàm
Ghi chú của chủ Blog:
TS.Nguyễn Quang A tác giả bài viết này
nguyên là Viện trưởng Viện IDS đã giải thể.
Nhận xét