Vạ bút
Vạ bút
Ngọc Dương
Ngày9/10/20126:00(GMT+7)Sự cố văn chương – “vạ bút” xưa nay
không hiếm. Thời sự nhất là gần đây, có bài thơ nhan đề “Lời những cây dầu cổ thụ ở trụ sở ủy ban nhân dân” của nhà thơ Đàm
Chu Văn, phó chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Đồng Nai bị “Cấm đi khỏi... nơi cư
trú”. Có người gọi là “Bài thơ bị cầm tù”. Nói thế nghĩa là những chuyện tôi
sắp nhắc lại dưới đây ở tỉnh ta trong lịch sử Hội Văn học nghệ thuật cũng chỉ
là “chuyện vặt”, nói cho vui nhân dịp Kỷ niệm 40 năm thành lập Hội, không có ý
phê bình, trách móc ai, vì đó là những chuyện lâu rồi.
Hội
Văn học nghệ thuật tỉnh Lào Cai thành lập năm 1972 thì đến 1976 sáp nhập tỉnh, trở
thành Hội Văn học nghệ thuật Hoàng Liên Sơn. Thời kỳ này nhà thơ Lò Ngân Sủn có
bài thơ Người Dân tộc nói đăng trên tạp chí Văn nghệ tỉnh trong đó có
câu: “Người dân tộc nói / No tai mà đói
cái bụng / cũng như có sấm mà không có mưa”. Một người trong cơ quan chuyên
trách Hội văn nghệ (không phải đảng viên Cộng sản) lên báo cáo với Thường trực
tỉnh ủy đại ý là: Bài thơ này của đảng viên Lò Ngân Sủn có ý chống Đảng, nói
xấu Tỉnh ủy là, chỉ nói nhiều mà không làm được gì cho dân. Lò Ngân Sủn khi
được tin Tỉnh ủy “xem xét” bài thơ của mình và có người nói bài thơ “chống
Đảng” thì ông rất hoang mang. Nhưng may là được ông Trưởng Ban Tuyên giáo bảo
vệ, lập luận rằng, không có vấn đề gì, đấy cũng chỉ là cách nói của đồng bào
dân tộc thôi... Thế là nhà thơ Lò Ngân Sủn thoát “tội”.
Năm
1991, tái lập tỉnh Lào Cai, chia ra từ Hoàng Liên Sơn, số tạp chí Văn nghệ đầu
tiên của tỉnh Lào Cai mới (1992) đăng bài thơ “Thế hệ tôi mơ ước đến mùa xuân” của nhà thơ Pờ Sảo Mìn. Sau khoảng
một năm, chẳng hiểu thế nào đến tai Bí thư tỉnh ủy. Lúc ấy tôi đang công tác ở
cơ quan này, hàng ngày thường lên hút thuốc lào với Bí thư. Vì là hội viên Hội
Văn học nghệ thuật tỉnh nên một hôm tôi được Bí thư tiết lộ: “Cái tay Pờ Sảo
Mìn vừa rồi làm bài thơ Thế hệ tôi mơ ước
đến mùa xuân đăng Tạp chí Văn nghệ tỉnh. Bài thơ này thể hiện rõ quan điểm
thù địch, không tin vào chế độ xã hội chủ nghĩa. Vì thế cho nên hắn còn mơ ước
đến một mùa xuân nào nữa? Hay là mơ ước để lật đổ chế độ này? Rõ ràng là một
bài thơ phản động!...” Tôi chỉ nhẹ nhàng khuyên giải: “Chắc không phải đâu anh
ạ. Văn thơ nó trừu tượng, nhiều khi nghĩ ra cái gì thì nó ra cái đó, anh cũng
nên cho qua đi.” Lúc ấy tôi rất thân với Bí thư, phần vì trước đây đã từng công
tác với nhau ở huyện, lại gần nhà nhau, có gì thường chia sẻ hết sức cởi mở. Sau đó tôi thấy ở Ban Tuyên giáo rồi một số cơ
quan trong hệ thống tư tưởng ở tỉnh có rỉ rả, bàn tán một thời gian. Nhưng có
lẽ trong bối cảnh tỉnh vừa mới chia, việc lo tập kết các cơ quan, xây dựng lại
thị xã tỉnh lỵ...cứ rối bù lên, nên sự cố bài thơ “Thế hệ tôi mơ ước đến mùa
xuân” dần dần bị / được quên lãng. Sau này chỉ còn lại giai thoại. Nhưng Pờ Sảo
Mìn cũng một thời bị nhiều người trong giới chính khách ở tỉnh, huyện “để ý” và tỏ ra
không thích. Tôi đi công tác ở Mường Khương, lần nào cũng xin phép Bí thư huyện
ủy xuống thăm Pờ Sảo Mìn. Không can ngăn nhưng Bí thư cũng có vẻ không hài
lòng. Lúc ấy ở huyện ít người biết đến Pờ Sảo Mìn, có người biết thì cũng chỉ biết
đến một Pờ Sảo Mìn là người Pa Dí, nhỏ thó, hom hem, lấm láp, một anh chàng
chăn ngựa, cắt cỏ cá...Thế thôi. Ở tỉnh thì tên tuổi Pờ Sảo Mìn được anh em
trong giới văn nghệ “tâm phục, khẩu phục” bởi tài năng của ông trong thơ ca,
một giọng thơ độc đáo của người Pa Dí. Nhưng giới chính khách chẳng mấy ai quan
tâm. Ở Hội Nhà văn Việt Nam, trên thi đàn quốc gia thì Pờ Sảo Mìn lại nổi như
cồn khi đọc “Cây hai ngàn lá”, “Con trai người Pa Dí” “Cây ống khói”, “Cung đàn
mùa xuân”...của ông. Thế mới biết, để hiểu một con người không phải chuyện đơn
giản. Đúng là, “Thức lâu mới biết đêm dài”.
Năm
1998, thời kỳ Đạo Tin lành tự phát du nhập ồ ạt vào một số vùng đồng bào Mông
trong tỉnh. Những người trong giới lãnh đạo có tinh thần cảnh giác cao thì
hoang mang, lo sợ các thế lực thù địch, phản động nấp ở đâu đó lợi dụng tôn
giáo làm mất ổn định chính trị và an ninh ở cơ sở. Nhìn thấy một trong những
nguyên nhân là do đời sống đồng bào còn nhiều khó khăn, Đảng, Nhà nước và cán
bộ địa phương cần phải quan tâm hơn nữa đến cuộc sống thiết thân của đồng bào,
nhà văn Đoàn Hữu Nam đã có bài bút ký dự thi: “Xào xạc những cánh rừng Lào Cai” trên báo Tiền Phong. Bài ký lại
kết bằng câu thơ của Lò Ngân Sủn: “Người
dân tộc nói / no tai mà đói cái bụng / cũng như có sấm mà không có mưa.”
Một ông “thày dùi” nào đó ở Ban Tuyên Giáo lại “tô” với Bí thư tỉnh ủy. Thế là
Bí thư chỉ đạo Ban Tuyên giáo phải kiểm điểm tác giả. Nhưng để tránh mang tiếng
“khắt khe”, thiếu lý lẽ, Bí thư có vẻ không quan tâm đến mấy câu thơ trên mà
chỉ yêu cầu làm rõ con số 12.000 người theo đạo, tại sao tác giả lại viết 120.000!
(Thêm một con số 0, do biên tập tờ báo đánh nhầm!). Bí thư bảo: “Nếu vậy thì
tính cả mấy đồng chí là người Mông trong Thường vụ cũng không đủ. Rõ ràng là
anh này viết sai sự thật, vi phạm luật báo chí, bêu xấu Tỉnh (!?) Cuộc chỉ đạo kỷ
luật nhà văn Đoàn Hữu Nam
được tiến hành bài bản. Trong chi bộ có 5 đảng viên thì 4 người biểu quyết xử
lý đồng chí Nam
bằng hình thức “Khiển trách”. Riêng đương sự thì không tán thành hình thức đó
mà tự nhận “Cảnh cáo”, nặng hơn một bậc! Chả nhẽ nhà văn lại giống con lừa – ưa
nặng! Nhưng kết thúc, theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thiểu số phục tùng đa
số, nên Nghị quyết “Khiển trách”, kèm theo “hình phạt phụ” là “treo bút” 3 năm,
không cho đăng tải mọi bài viết của Đoàn Hữu Nam . Tuy nhiên, do điều kiện lúc ấy
còn quá ít tác giả viết cho Tạp chí Văn nghệ của Hội, nên chỉ sau vài tháng đã
thấy xuất hiện bài của Nam trên Tạp chí Văn nghệ, trên báo tỉnh, báo ngành
trung ương mà cũng không thấy ai “nhắc nhở”. Còn chuyện cười ra nước mắt nữa, án
kỷ luật của Nam vừa được công bố thì báo Tiền Phong thông báo danh sách trúng
giải cuộc thi, trong đó có bài “Xào xạc những cánh rừng Lào Cai”! Lập tức, Hội
Văn học nghệ thuật và Đoàn Hữu Nam nhận được “trát” của thượng cấp là, đồng chí
Nam không được nhận giải. Đồng thời, Ban Tuyên Giáo có công văn cho Tổng Biên
Tập báo Tiền Phong là không trao giải cho Đoàn Hữu Nam . Sau đó ít ngày, tôi có dịp đi
công tác ở Hội Nhà Văn Việt Nam, có người cho biết, hôm trước Nam cũng xuống
đây, rồi sang Báo Tiền Phong nhận “giải chui”!...
Cũng
thời kỳ này, tôi đang công tác ở một Ban Đảng lại kiêm chủ tịch Hội Văn học
nghệ thuật. Trong cơ quan Ban Đảng có chuyện lình sình xuất phát từ sự đố kỵ
của một tên “thày dùi” từng nổi tiếng mất đoàn kết ở nơi khác do tôi nhận về
làm thuộc cấp của mình. Đó là sai lầm lớn nhất của tôi. Hàng ngày, tôi thường
chỉ tập trung cho công việc, coi thường, không quan tâm những chuyện “vớ vẩn”. Đó
cũng là thói xấu kiêu ngạo của tôi, cứ thẳng băng mà đi, không biết nhìn trước,
ngó sau để tránh bọn tiểu nhân nịnh hót cấp trên của mình, “rải đinh”, “rắc
chông”, cài bẫy... Tôi vốn không mấy khi làm thơ nhưng một hôm xem phim Tây Du
Ký liền nảy ra bài thơ: “Nỗi niềm Tôn
Hành Giả”. Bài thơ nói về một sai lầm của thày Đường Tăng trên đường đi Tây
Trúc thỉnh kinh khi xử sự với Tôn Ngộ Không, một đồ đệ trung thành, tài năng
xuất chúng, để cuối cùng phải ân hận vì “lẫn lộn giữa Người và Ma”. Bài thơ đăng
trên Tạp chí Văn nghệ tỉnh sau 3 tháng thì một hôm, Bí thư gọi tôi lên: “Anh
làm chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật, một người được Tỉnh ủy giao “gác cổng”
trên lĩnh vực tư tưởng chính trị trong sáng tác, thế mà tại sao anh lại đăng
bài thơ do chính anh làm, ám chỉ đường lối cán bộ của Tỉnh ủy!? Nếu anh viết
rồi để trong cặp thì tôi không nói gì. Đằng này anh cho đăng lên Tạp chí, phát
hành toàn quốc, cả nước người ta sẽ nghĩ gì về công tác cán bộ của tỉnh này, mà
tôi là người đứng đầu, là Bí thư, anh hiểu không?!...” Tôi bị bất ngờ, ớ ra,
không kịp hiểu sự thể. Hút điếu thuốc lào sặc đến 3 lần! Lúc này tôi sợ nhất
không phải vì đã đăng bài thơ mà thấy Bí thư vốn là người rất quý tôi vì đã
từng kề cận, đồng cam cộng khổ thuở hàn vi ở huyện, thường xưng hô “chú chú,
anh anh” với tôi, thế mà hôm nay “đổi màu” gọi tôi bằng “anh” thì tôi kinh quá!
Điệu này chết đến đít rồi! Tôi chỉ phản ứng nhẹ vài câu: “Không phải đâu anh
ạ!...Em không có ý đấy”. Công bằng mà nói, Bí thư vốn là người thật thà, chất
phác, rất dễ tin người. Nhưng vụ này có yếu tố “ma mãnh” nên rất khó giải
thích. Dưới sự chỉ đạo của Bí thư, ít nhất có 3 cuộc họp được tiến hành để truy
xét tư tưởng bài thơ. Đó là, Ban Biên tập Tạp chí Văn nghệ gồm 9 thành viên; tập
thể lãnh đạo Ban Tuyên Giáo tỉnh ủy gồm Trưởng ban và 4 Phó ban (trong đó có
Giám đốc Sở Văn hóa thông tin, Tổng biên tập Báo Đảng); Hội đồng nghệ thuật của
Tỉnh gồm 11 thành viên, có nhiều văn nghệ sĩ tên tuổi trong tỉnh. Tất cả các
Biên bản của các tổ chức này đều kết luận đại ý: đây là một bài thơ bình
thường, có tư tưởng phê phán nhận thức sai lầm, rút ra bài học cho thực tiễn.
Bài thơ không vi phạm luật báo chí, luật xuất bản... Vài ngày sau, tôi gửi đến
Bí thư một bài viết tâm huyết, nói về quá trình cống hiến của mình, về quan hệ
vốn rất tốt đẹp với Bí thư từ lâu. Đặc biệt, tôi đã mang hết lý luận về Văn học
nghệ thuật, về Mỹ học tiếp thu được ở nhà trường những năm trước đây ra phân
tích, lý giải về đặc trưng văn học, hy vọng Bí thư sẽ nhìn nhận lại... Nhưng ôi
thôi, chẳng cái dại nào giống dại nào. Một hôm tôi giật mình khi nghe tin, tên “thày
dùi ném đá giấu tay” “dùi” cho Bí thư một quả cực kỳ “độc” từ xa: “Bí thư là ủy
viên Trung ương Đảng mà chả hiểu gì về văn học, để một tên “tốt đen” lãnh đạo
Hội Văn nghệ địa phương dám “dạy cho Bí thư bài học về văn học nghệ thuật”! Thế
là tính tự ái của con người bốc lên ngút giời...Và kết quả là tôi bị tập thể
Ban thường vụ tỉnh ủy ra Nghị quyết Kỷ luật với hình thức “Cảnh cáo”, mặc dù đa
số các ủy viên thường vụ vừa biểu quyết vừa... cười ruồi!
Trong
lịch sử thế giới chưa từng thấy có nơi nào nhà văn, nhà thơ hay một tác phẩm
văn học, thậm chí cả một nền văn học có thể lật đổ được thể chế chính trị. Thế
mà sao có những người sợ văn, thơ đến thế? Nhà thơ Trần Đăng khoa đã viết:
“Những nhà văn, nhà thơ, những người phận mỏng cánh chuồn, tay yếu, ruột mềm,
chẳng có quyền bính gì hết” (Chân dung và
đối thoại). Vâng, đã là phận mỏng cánh chuồn, quyền bính chẳng có thì tác
phẩm của họ hay, dở, xã hội có quyền khen, chê, chấp nhận hay vứt vào sọt rác,
chứ nó đâu phải là súng ống, bom đạn phá hoại được chế độ. Nhà văn Ngụy Minh
Luận (Trung Quốc), trong một bài phiếm đàm nhan đề Văn học và Tôi, có viết: “Văn học không phải võ học, tuyệt nhiên
không có sức mạnh đè bẹp chông gai, càng không có bàn tay khổng lồ dẹp cơn bão
tố, không thể làm Bồ Tát cứu thế, cũng không thể làm gian hùng loạn thế”... Vậy
cái gì đã dẫn đến những bi kịch đối với các nhà văn, nhà thơ, tóm lại, những
người sáng tạo nghệ thuật “phận mỏng cánh chuồn” khi chẳng may tác phẩm của họ
bị cho là “ám chỉ” cái này cái nọ? Tại sao một tác phẩm văn học khi người có
quyền thế cho là xấu lại không được xử bằng pháp luật Nhà nước một cách đàng
hoàng, minh bạch mà cứ từ đâu tác giả bị sấm sét, bão tố giáng xuống đầu !?
Tại sao nhỉ ?...
(Tháng 9 – 2012)
Nhận xét