Cặc bần và dái mít
Cặc bần và dái mít
Phan Văn Tú
Phan Văn Tú
Cặc bần |
Hồi còn sinh viên, một lần về miền Tây Nam bộ ăn đám giỗ, tôi
có nghe một sản phẩm dân gian dưới hình thức cặp câu thơ đối rất ngộ nhưng lâu
nay chưa thấy nhắc đến trong sách vở:
Nước chảy, cặc bần rung bây bẩy
Hai câu tả cảnh không có gì đặc sắc. Cái đặc sắc
của nó là đưa cả “cặc” lẫn “dái” vào một hình thức thơ trang trọng.
Cặc bần |
Cũng có một dị bản của hai câu này (khác ở chỗ
đổi “nước chảy” thành “sóng vỗ”):
Sóng vỗ, cặc bần run bây bẩy
Gió đưa, dái mít giãy tê tê
Có ở vùng sông rạch miền Tây Nam bộ thì mới hiểu được.
Dái mít |
“Dái mít” thì hầu như ai cũng biết, đó là cách
nói khác của “khóm mít”. Còn “cặc bần”?
Trước hết, xin nói ngay, “bần” là một loài thực
vật. Học giả Vương Hồng Sển viết về cây bần như sau: “Bần là cây gỗ tạp, mọc
dựa mé nước, rễ nhiều, bám theo đất phù sa mà làm cho đất có phần vững chắc
không trôi khi sóng đánh. Cây bần có lá xanh rất đẹp, ban đêm đom đóm đậu nhiều
trông rất xinh. Có trái, ăn với mắm sống rất ngon. Chúa Nguyễn Ánh được nếm
qua, rất hài lòng và ban cho tên chữ là Thúy Liễu. Rễ của bần dùng làm nút ve
được. Phân ra có loại bần-chua, trái lớn; và bần-ổi, trái nhỏ hơn và tương đối
ít chua hơn. Xưa nay, nghề uốn và chơi kiểng, phàm cây kiểng lão và gốc bần quá
già, khi nào gốc dẽ ra ngoài bờ ngoài nước thì gọi là nó chiếu thủy, ý nói bóng
cây ấy làm dáng và dòm xuống nước”.
Sông rạch miền Nam có nhiều loại cây khá đặc
trưng, đặc biệt là những cây “mở đất” như đước, mắm. Bần cũng thuộc loại cây có
công trong quá trình Nam
tiến. Loài bần có những sợi rễ ngoi lên từ mặt bùn đất trông khá gợi tình.
Người dân gọi đó là “cặc bần” tương tự như người miền Trung gọi những cội dứa
hoang có những rễ cây thon thon nhô đầu đâm ra rồi trườn xuống, lăm le đâm vào
bờ suối là “cặc dứa”….
Về Cà Mau, bạn sẽ được biết về cây mắm, cây
đước, cây bần với “cặc bần”, “cặc mắm”. Đó là những loài thực vật cứ như người
nông dân lom khom trên vùng đất mới để đi tìm một chốn dừng chân và lặng lẽ,
miệt mài sinh sôi nảy nở với vùng đất sình lầy để lấn biển và giữ đất.
Nguyễn Duy trong bài thơ “Đánh thức tiềm lực” có
viết:
“Tôi về quê em – châu thổ mới bồi
sông Cửu Long giãn mình ra biển
đất cuồn cuộn sinh sôi và dịch chuyển
cây mắm cây tràm lặn lội mở đường đi”
Cây bần, cái tên gọi đã gần gũi với người nông
dân nghèo, thường sống ở bờ sông, nửa ướt nửa khô, chơi với cá đùa với chim.
Gốc bần trở thành “bến đò”, là nơi dân nghèo neo đậu chiếc xuồng nhỏ. Hầu như
không một người dân nghèo miền Tây nào lại chưa từng nếm bát canh chua nấu bằng
quả bần. Cây bần cũng là hình ảnh thân thương trong tâm hồn của người miền Tây Nam bộ
xa xứ.
Hoa bần |
Trái bần lúc còn non, ăn cũng rất thú vị. Có một
điều độc đáo là hoa bần rất… quý phái: màu trắng tím, cánh hoa đỏ đậm, mảnh,
cao. Tiểu nhuỵ nhiều, đáy chỉ đỏ tím, quả bì dày, nạc chua chua; hột nhiều.
Hiện ở miền Tây còn có nhiều khu vực bần sống
thành rừng lớn như ở các các huyện Long Phú, Cù Lao Dung (Sóc Trăng). Cây bần
đang bị khai thác vô tội vạ để làm củi và rễ làm nút bần xuất khẩu.
Bần tạo thành rừng phòng hộ khá tốt và góp phần
ổn định hệ sinh thái nhưng nguy cơ phá bần nuôi trồng thủy sản đang báo động.
Cái lợi trước mắt có khi làm người ta không ngần ngại “bần cùng hóa” những rừng
bần. Biết đâu có ngày nào đó, bạn sẽ không còn có cơ hội kiểm chứng cái… cặc
bần trong câu ca dân gian trên đây?
Phan Văn Tú
Nguồn: lophocvuive.com
Nhận xét