5756. MỘT LẦN NGƯỢC NÚI…
MỘT LẦN NGƯỢC NÚI…
Nguyễn Ngọc Dương /PNTB
LCĐT - Một lần, tôi và người bạn đồng hành lên một xã vùng cao
trên tuyến đường nông thôn mới. Vừa đi vừa chụp ảnh hai bên đường. Khoảng 30
phút sau thì đặt chân tới một thôn nằm chót vót trên đỉnh núi. Không biết ở độ
cao nào nhưng thấy trời mát dịu, không khí trong lành.
Gặp một
chàng trai dân tộc Dao đỏ. “Hai ông đi đâu đấy?”- chàng trai hỏi. “Chúng tớ
muốn lên cao nữa để nhìn thấy cái “mâm xôi” ruộng bậc thang kia”. “Ồ, thế thì
đi theo cháu lên trên ấy”. Thấy hai người ngần ngại, chàng trai biết ý, bảo:
“Có đường bê tông, xe máy lên được mà”. Nghĩ bụng, bây giờ được leo núi bằng xe
máy, ngày xưa ai mà dám mơ. Thế rồi chàng trai kia chạy trước, hai chúng tôi
bám theo.
Từ đoạn
rẽ ngược lên, vẫn đường bê tông nhưng chỉ rộng khoảng 1,2 mét. Càng lên, độ dốc
càng lớn. Xe luôn cài số 2, nhiều lúc phải về số 1. Leo được một hồi thì phải
rẽ vào con đường nhỏ nữa, ước chừng chỉ rộng độ hơn 3 gang tay, bên phải, ta
luy dương dựng ngược toàn đá, bên trái, ta luy âm “vô tiền khoáng hậu”, hun
hút, chả thấy đáy vực đâu! Có đi thế này mới khâm phục cái tài lái xe máy trên
núi của các chàng trai sơn cước.
Chàng
thanh niên tên là Lò Láo Lở, dẫn chúng tôi lên đến ngôi nhà gỗ nhỏ nhắn “treo”
trên sườn núi, trong tán rừng tạp âm u. Giả định không có cây cối che kín thì ở
dưới kia nhìn lên, chắc ngôi nhà sẽ giống cái chuồng chim gá vào vách đá. Đứng
ở mảnh sân của ngôi nhà phụ bên dưới rộng chừng 9 mét vuông, Lở chỉ lên đỉnh
một đồi lúa đang đỏ đuôi: “Đấy, muốn chụp ảnh ruộng bậc thang rộng thì hai ông
để xe máy ở đây, leo lên kia”. Tôi ngước mắt lên, thấy hãi, hỏi, “Chắc khó đi
lắm?”. Lò Láo Lở nói: “Cũng không khó mấy, chúng cháu đi bình thường mà.”. Liếc
qua cặp giò của Lở, tôi nghĩ bụng: “Các “anh già” chúng tớ đú làm sao được
thanh niên sơn cước chú mày!”. Nghĩ vậy nhưng vẫn nói: “Ừ, lúc nào nắng, có
điều kiện thì lên”. Chả là giữa lúc đó, mây ở đâu ùn ùn táp vào, cả dãy núi
mênh mông tối sầm, mặc dù đã hơn 9 giờ sáng, ở dưới thung kia nắng vẫn chang
chang…
Thấy ba
người nói chuyện, bố Lở, một lão nông khoảng hơn 50 tuổi, từ ngôi nhà trên cao
lò dò bước xuống từng bậc đất, đá. Chân ông xỏ đôi ủng cao đến đầu gối, tay cầm
con dao phát. Mọi người chào nhau và làm quen. Chúng tôi hỏi thăm về đời sống
đồng bào, ông bảo: “Cũng còn nhiều khó khăn lắm, đất núi thì có đấy, nhưng
trồng cây gì cũng không lên được. Cây quế 30 năm kia kìa!”. Ông chỉ một cây quế
còi cọc, khẳng khiu phía sau nhà. Tôi ước chừng cây quế chỉ hơn một chít
tay…“Đấy, còn những cây lúa kia có “quả” rồi, nhưng khi thu hoạch cái hạt thóc
nó cũng không no”…
Tôi
ngạc nhiên vì câu nói tưng tửng của ông! Giá như mình thì bảo hạt thóc lép,
đằng này ông nói hạt thóc nó “không no”. “Ờ, thế là mình học được một chữ” -
tôi thầm nghĩ. Cái hay của ngôn từ còn chứa đựng chiều sâu tư duy của người
vùng cao, hạt thóc là biểu tượng của đời sống con người nơi đây. Bởi cái để
chống đói cho người, mà chính bản thân nó còn “không no” thì sao thực hiện được
thiên chức vốn có của nó! Xưa có câu: “Ốc chả mang nổi mình ốc còn mang cọc cho
rêu”. Nhưng trời sinh ra dân tộc Dao đỏ, bắt họ phải sống ở đỉnh núi cao, nơi
thâm sơn cùng cốc thì âu cũng là… thiên định!
Tôi
hỏi: “Ở đây canh tác, đi lại khó khăn thế mà đồng bào vẫn chịu khó “bám trụ”,
sao không xuống dưới kia mà ở?”. Ông lão nói ngay: “Không được, dưới đó người
ta ở hết rồi, mình phải đến cái chỗ không phải tranh nhau với ai cả”… Được
biết, người Dao đỏ theo truyền thuyết là “anh cả” trong 3 nhóm Dao. Nhưng hai
nhóm Dao tuyển và Dao họ thì ở vùng thấp hơn, ven suối, ven sông, nơi có ít độ
dốc, đất đai lại phì nhiêu. Điều đó dễ hiểu. Còn người Dao đỏ thì luôn leo lên
cao, nơi hiểm trở, đất dốc khó canh tác. Từ lâu, tôi vẫn không giải thích được
điều này, nhưng hôm nay nghe bố Lở nói, đã “vỡ” ra phần nào. Hóa ra người Dao
đỏ đề cao cuộc sống tự do hơn, họ không muốn ở chỗ đông người, phải bon chen,
giành giật đất đai, rừng núi với người khác. Biết đâu cũng là một nét “văn hóa
nhường nhịn”, anh nhường cho các em?
Thấy Lở
mặc cái áo thanh niên tình nguyện màu xanh nước biển nổi bật lá cờ đỏ sao vàng
đuôi nheo ở dưới túi áo ngực, tôi hỏi: “Cháu có tham gia công tác Đoàn không?”.
“Dạ không ạ?”. “Bác tưởng cháu mặc cái áo này… À mà cháu có thích vào Đảng
không?”. “Dạ thích chứ!”. “Tốt rồi!”. Bạn đồng hành với tôi hỏi thêm: “Thế
thanh niên trong bản có nhiều người thích vào Đảng không?”. “Thích, nhưng khó
lắm!”. “Sao lại khó?”. Bố Lở trả lời thay: “Khó chứ, bí thư nó không muốn cho vào
Đảng đâu, vì cho nhiều người khác vào Đảng thì nó sợ người ta đẹp hơn!”.
Lại một
câu tưng tửng nữa, “Sợ - cho - nhiều - người - khác - vào - Đảng - nó - đẹp
- hơn !”. Cứ như bố Lở nói thì tâm lý đồng chí cán bộ đảng ở đây, chỉ
muốn mình đẹp nhất? Làm cán bộ thì đẹp, mà muốn làm cán bộ thì phải được vào
Đảng. Vì thế cho nhiều người vào Đảng, nó thành cán bộ thì nó sẽ “đẹp” hơn… Có
lẽ đây là một nét tâm lý tiêu cực chẳng phải của riêng người Dao đỏ. Thành ngữ
có câu: “Con gà tức nhau tiếng gáy” hay “Trâu buộc ghét trâu ăn”. Phải thừa
nhận, văn hóa truyền thống của chúng ta có rất nhiều nét đẹp, nhưng bên cạnh đó
cũng có những nét chưa đẹp… Bố Lở nói vậy là nói cái trong bụng ông nghĩ, rất
thật. Ông dựa ngay vào thực tế của nhà ông, xóm ông, làng ông ở nơi sương khói
ngút ngàn này, chứ ông đâu có lý luận mà nói lấy hay.
Chỉ
trong 20 phút nói chuyện với bố Lở, một lão nông mới biết đọc biết viết, nhưng
tôi đã học được ở ông 2 câu nói ấn tượng: “Hạt thóc không no” và “vào Đảng để
được đẹp”. Có lần tôi đọc một giai thoại của cụ Nguyễn (nhà văn Nguyễn Tuân),
nói rằng, để viết văn, ông đi đâu cũng học cách nói của người dân. Ông lắng
nghe người dân nói từng câu, từng chữ mà những người lao động chân lấm tay bùn
ấy sáng tạo ra. Chỉ có dùng chữ của những người ấy thì văn học mới sống được.
Một
lần, cụ Nguyễn đi xe đạp trong một đường làng, đi sau một bà nông dân “chân đất
mắt toét”, nhà văn mải nghĩ gì đó nên suýt thì đâm xe vào lưng bà. Ông chỉ kịp
bóp phanh, không kịp bấm chuông, vội vàng kêu lên: “Ấy ấy bà tránh ra!”. Bà
nông dân giật mình né sang cạnh và trách với một câu: “Cái ông này, chuông xe
đạp của ông… điếc à?”. Nguyễn Tuân xin lỗi bà rồi dừng lại, kéo xe đạp dựng vào
ven đường, ngồi xổm xuống, móc vội quyển sổ tay nhỏ xíu và cái bút máy trong
túi áo ngực ra nắn nót: “CÁI - CHUÔNG - ĐIẾC”. Nhà văn thầm nghĩ, xưa nay
chuông không kêu, người ta chỉ nói “chuông câm”. Nay lần đầu tiên nghe bà nhà
quê này nói “Cái chuông điếc” thì ông… bái phục.
“Đi một
ngày đàng, học một sàng khôn” - các cụ ta nói cấm có sai. Hôm nay lên đỉnh núi,
trò chuyện với lão nông ít học, mà tôi vẫn học được ở ông cách nói của một
người chân lấm tay bùn. Tôi thầm cảm ơn ông.
NGUYỄN NGỌC DƯƠNG
(Nguồn: Báo Lào Cai)
Nhận xét