5731. Anh đi trong nắng huy hoàng
Anh đi trong nắng huy
hoàng
Truyện
ngắn. Phạm
Duy Nghĩa
Anh
về đến nhà chung cư lúc bảy giờ tối. Trời lạnh nhưng anh về muộn hơn mọi ngày
bởi cố ở lại cơ quan làm cho xong vài việc. Không còn nhiều thời gian nữa. Hai
mươi bốn năm trước, khi anh đang là cậu sinh viên đại học, một người đàn ông
tình cờ gặp tại quán rượu đã tiên đoán rằng anh sẽ chết vào đúng ngày này.
Anh sẽ chết vào một buổi tối mùa đông khô lạnh, khi ấy chỉ có một mình. Thầy tử
vi soi lá số của anh, quả quyết. Đi xem bói ở vài nơi, anh cũng được phán thế.
Họ nói cuộc đời anh sẽ chấm dứt vào đúng ngày hôm đó, mùa đông.Cách đây mấy hôm, anh đã cân nhắc việc chọn địa điểm chết cho mình. Chết ở cơ quan thì không tiện, bởi sau này sẽ chẳng có ai dám làm việc tại căn phòng anh đã trút hơi thở cuối cùng. Có thể vào một nhà nghỉ quạnh hiu và âm thầm ra đi tại đó, nhưng anh sớm từ bỏ ý định này vì không muốn gây phiền phức cho chủ nhà nghỉ. Cũng có thể lên tàu đi đến một miền xa, nằm chết trên đồi hoang, nhưng sẽ để lại nỗi ám ảnh cho nhiều người về một cái chết lạ lùng nơi đất khách. Sau nhiều phương án lựa chọn, anh quyết định về căn hộ chung cư của mình.
Tòa chung cư ở ngoại thành, cạnh một ngôi làng. Khi bước vào chân cầu thang đầy
bóng tối, anh thấy hình như có ai đó bí mật bám theo sau. Đã một tuần nay anh
luôn có cảm giác như vậy. Thận trọng, anh khóa cổng tòa nhà lại. Đây là chung
cư tự quản, không có bảo vệ, bất cứ kẻ xấu nào cũng có thể tìm cách lọt được
vào nhà.
Mở cửa căn phòng ở tầng bảy, bước vào trong, anh không chốt cửa phòng mà chỉ khép
hờ. Để mai đây người ta không phải phá cửa sau khi phát hiện có xác chết ở
trong phòng. Ngồi trên ghế sô pha, ngẫm nghĩ một lúc, anh gửi tin nhắn vào máy
di động của cô bạn thân làm ở văn phòng ủy ban tỉnh: “Sáng mai em gọi điện cho
anh, nếu không thấy anh trả lời thì nhờ em liên lạc vào số máy sau báo tin rằng
anh đã gặp sự chẳng lành. Đó là số điện thoại của em gái anh…”.
***
Hàng ngày anh vẫn nhìn thấy họ ở cái công viên ấy, trên đường anh đến tòa báo.
Họ đi thành đoàn, lặng lẽ, áo thun đỏ in dòng chữ trắng ở lưng. Có người mang
theo tấm bằng Tổ quốc ghi công, có người ôm bát hương và tấm ảnh thờ. Những
ngày đông giá, gió lạnh thấu xương, họ vẫn đứng thành hàng dọc công viên, bóng
áo đỏ leo lét trong sương mù. Như những bù nhìn phơi mặt giữa đồng. Câm lặng.
Không mấy ai để ý đến họ. Có chăng chỉ là những câu nói bâng quơ buột miệng của
người qua đường.
“Đám người lười lao động, không muốn làm lại muốn có ăn. Được một lại muốn đòi
hai, bỏ mặc đồng quê kéo nhau lên đây nằm ăn vạ”.
“Cái vườn hoa đẹp thế kia mà lại lổn nhổn một đám người làm xấu cả bộ mặt thành
phố. Sao không đuổi hết họ về nông thôn”.
Có một người cũng từ miền quê lên nhưng không đi cùng đoàn áo đỏ. Một tháng
qua, anh để ý thấy ông ta chỉ lủi thủi một mình. Nhiều lần ông đến trước ngôi
nhà đồ sộ màu vàng, bị người gác cổng xua đuổi, lại lầm lũi trở ra và đi về đâu
không rõ.
Anh gặp người đàn ông ấy bên sông vào một buổi chiều. Cánh tay cụt kẹp chiếc
túi cói đựng giấy tờ, ông đứng dựa vào cây cột điện, nhìn ra dòng nước bạc chảy
hiu hiu. Đôi mắt màu thịt hến trắng đục vô hồn, đờ đẫn. Lúc ấy trời nổi mây
xám, gió mạnh. Người đàn ông, có vẻ đói và không một xu dính túi, mãi rồi mới
dám ngồi lên xe máy để anh đưa về.
Đường về nhà ông men theo mấy quả đồi ven sông bạt ngàn lau. Một màu lau trắng
u hoài, man mác. Đi mãi mới đến nơi. Đó là một túp lều xập xệ căng tạm bằng vải
bạt ở chân đồi, cạnh một đầm nước xanh đặc rêu. Trên bờ dốc thoải chạy ra sông,
có con chó lông vàng vừa cắn nhá vừa đùa giỡn với con thằn lằn nó bắt được.
Trong bóng tối của ngôi lều, anh giật mình thấy một hình người ngồi bất động
trên cái ổ nhồi bằng giẻ và lá khô. Cái đầu vàng ệch như trái bưởi ủng lõm vào
một khoảng, ở chỗ vốn là miệng chỉ như một lỗ khoét nhỏ và không có môi. Nhìn
thấy anh, cái lỗ ấy bật ra mấy tiếng kêu ộp oạp như tiếng ễnh ương và từ hai hố
mắt sâu phồng lên con ngươi như cục thịt ốc nhồi xám ngoét.
– Đây là con gái tôi.
Anh nhìn quanh. Ở góc lều là một cái hòm cũ tróc sơn, loại hòm đựng đạn của
lính chiến, trên đặt ống bơ cắm vài que hương. Một tấm bằng chứng nhận huân
chương vứt chỏng chơ trên đất.
– Chúng tôi mất tất cả, chẳng còn gì – Ông nói như thì thầm. Cố lắng nghe trong
tiếng gió thổi qua đồi lau ào ào, anh được biết tên ông là Thận, bị nhiễm chất
độc diệt cỏ khi là lính ở Tây Nguyên, sinh được hai đứa con thì vợ chết. Hai
đứa đều dị dạng. Đứa con gái này bị thằng bất lương nào đó hiếp giữa đồi hoang,
hai tuần trước đẻ ra một cái bọc đầy nước lẫn thịt đỏ nhầy nhụa. Thằng em trai
thì bỏ đi mất tích từ hôm đoàn cưỡng chế thu hồi đất về làng.
Hôm ấy trời lạnh hơn mọi ngày. Đoàn cưỡng chế súng đạn đầy mình, lá chắn trong
suốt dàn hàng ngang, hùng mạnh như một binh đoàn ra trận. Theo sau là máy xúc,
máy ủi rầm rộ. Khu vực nhanh chóng được phong tỏa, lực lượng công binh mang máy
vào đồi cây, vườn tược dò mìn. Trẻ con đứng nép vào gốc cây bên đường, sợ sệt.
Không ai gài mìn tự chế hoặc chống cự bằng súng hoa cải, cũng chẳng ai liều
chết bằng bom xăng. Chỉ có tiếng kêu khóc vang dậy khắp làng. Có nhà từ già đến
trẻ chít khăn tang ngoan cố ôm chặt lấy hàng cột hiên như đàn kiến nhi nhúc bám
quanh thỏi đường. Lực lượng chức năng chẳng cần tốn sức gỡ họ ra. Vòi rồng chĩa
vào, đám người lả tả rụng rơi, chìm trong trận mưa nước xối.
Nhà ông ở cuối thôn, là một trong số hơn chục hộ dân của làng Vải không chịu
nhận tiền đền bù giải phóng mặt bằng. Khi gót giày của đoàn cưỡng chế bắt đầu
xéo nát vạt rau trên mảnh vườn trước cửa, thì con gái ông, khi đó đã chửa được
sáu tháng, từ nhà chạy ra. Đến giữa sân, nó quỳ xuống và vừa chắp tay vái lạy
họ vừa khóc thảm thiết bằng thứ âm thanh không giống tiếng người. Ngôi nhà gỗ
mối mọt nhanh chóng bị máy xúc Komatsu phá sập, bụi bay mù mịt, trong khi nó
cuống quýt bò quanh người đội trưởng đội phá dỡ, lê lết ôm lấy cẳng chân ông
ta. Người đó, có lẽ đủ từ tâm để không nỡ đạp cho cái hình nhân ghê tởm đang
mang bầu một phát vào giữa ngực, cũng không dám dùng tay để gỡ nó ra. Ông ta
giãy giụa như đỉa phải vôi, trước khi con bé buông tay ngất đi, trong tiếng cưa
máy rộn ràng và tiếng đổ ào ào của cây cối sau nhà như một cơn bão lớn…
Câu chuyện bị ngắt quãng vì con chó vàng kêu ư ử chạy xộc vào. Nó vừa nôn mửa
trước lều sau khi gặm hết một nửa con thằn lằn tanh tưởi. Anh nhìn cái mõm dính
máu của nó hít ngửi bàn chân ông Thận, và hỏi dân làng hiện sống bằng gì.
– Làng Vải chúng tôi không có nghề phụ, bao đời chỉ biết bám vào đất đai đồng
ruộng. Đất dưới chân đã mất thì chỉ còn hai bàn tay trắng giữa trời. Người thì
ăn nhờ ở đậu, người bắt con cua con cá sống tạm qua ngày. Mọi người may mắn là
có hai tay lành lặn, tôi chỉ còn một tay.
– Sao ông không như nhiều hộ khác, chấp nhận đền bù và đến ở khu tái định cư?
– Mỗi mét vuông đất tôi chỉ được bồi thường một trăm sáu mươi nghìn, nếu chấp
nhận đền bù thì cũng không biết lấy đâu cho đủ tiền để mua một suất gần trăm
triệu ở khu tái định cư. Chẳng ai muốn chống đối để phải ngồi tù, nhà báo ạ,
nhưng mấu chốt vấn đề là ở chỗ đó. Có người còn rơi vào diện bị mất trắng không
được đền bù.
Gió thổi lộng làm tấm bạt che lều rung lật phật. Từ trong hẻm đồi mịt mù lau
sậy, chợt vẳng lên tiếng hú trầm trầm.
– Thằng cháu con người bạn đồng ngũ của tôi – Ông Thận giải thích – Nó làm chòi
trên cây cổ thụ, sống như chim. Ngoài ba mươi vẫn cô quạnh một mình, mấy năm
rồi không tìm được việc làm ở thành phố.
– Còn bố nó?
– Ông ấy mất rồi. Lẽ ra ông ấy đã chết năm bảy mốt ở Tây Nguyên, khi chúng tôi lạc đơn vị một tuần, có lúc phải bắt sâu trên lá rừng ăn sống cho đỡ đói. Cánh tay tôi dập nát còn ông ấy bị đạn xuyên thủng bụng, ruột lòi cả ra ngoài. Hai đứa nằm ở gốc cây sa mộc dưới trăng, động viên nhau phải sống để sau này chiến tranh kết thúc cùng nhau xây dựng đất nước đẹp giàu. Và ông ấy, cũng như tôi, đã sống. Ôm con chó vào lòng, nhìn ra hòn cù lao phủ đầy lau trắng giữa sông đang nhòe dần trong sương bạc, ông im lặng hồi lâu rồi nói tiếp.
– Hết chiến tranh, chúng tôi về làng. Ông ấy lấy vợ đẻ con rồi đưa cả nhà vào núi ở, mua lại đất của một người dân ở đó và nhận thêm đất giao thầu của xã để trồng rừng và nuôi gia súc gia cầm. Quanh năm lủi thủi như con chồn con cáo, con don con nhím, chỉ biết cắm mặt làm lụng, không hề gặp gỡ một ai. Có lần tôi tìm vào thăm ông ấy, chỉ thấy một dải mịt mù xanh, chợt nghĩ không biết bạn mình có còn là người không hay đã hóa thành con khỉ con voọc trên rừng. Một tối mùa hè, có tiếng cú kêu trên cây trám ở sau nhà ông ấy, nó kêu suốt đêm làm cả nhà sợ hãi. Hôm sau vào lúc chính ngọ, khi đang ở rừng, có con ong vàng xuất hiện bay quanh đầu ông ấy mấy vòng. Biết là điềm chẳng lành, ông hốt hoảng bỏ dao bỏ cuốc chạy về nhà. Đến nơi thì nhà cửa chuồng trại đã bị phá nát, cán bộ xã cùng đám người xăm trổ vằn vện đứng đen cả bờ ao. Họ nói hơn chục hecta này đã được quy hoạch làm khu du lịch suối khoáng, mặc dù trước đó ông chưa từng nhận được thông báo và quyết định thu hồi. Ông chạy lên xã lên huyện hỏi, người ta trả lời rằng đất của ông là đất công ích, nay tịch thu lại, và không được bồi thường một xu.
Trong lúc giằng co, vợ ông bị một gã côn đồ xô ngã vào cái đinh, mấy ngày sau lên cơn sốt nhiễm trùng rồi chết. Thương người vợ tảo tần hiền thục, ông mang vợ ra bãi sông chôn và dựng lều trên đó ở. Cũng từ ngày ấy ông thường ngủ mơ thấy một con hạc bay về nơi đầu bãi, cất tiếng kêu thê thiết gọi ông đi.
Suốt chín năm trời, ông ôm đơn khiếu kiện tới khắp hang cùng ngõ hẻm. Chỗ thì xua đuổi, chỗ thì nói sẽ nghiên cứu giải quyết nhưng rồi vĩnh viễn không trả lời. Hình như họ muốn làm cho ông kiệt sức mà bỏ cuộc.
Ông ấy qua đời vào buổi sáng mùa thu, trời xanh ngắt không một gợn mây. Phút lâm chung, có con hạc trắng bay ngang bầu trời, tiếng kêu trong vắt. Ông gọi con trai lại, trao cho nó toàn bộ gia tài – một cái vại sành đào lên ở bãi bồi, trong đựng đầy giấy má đơn từ đã quăn queo vàng ố. “Đời bố bất lực, đời con tiếp tục đi đòi…” – ông nói rồi nhắm mắt. Tháng năm trôi, những người từng tịch thu đất của ông đã chuyển công tác hoặc về hưu, và trên cái nền nhà cũ bị băm vụn của ông, cỏ hoang đã xóa sạch lối vào, lau sậy trùng trùng phủ kín. Ước mơ đòi lại đất của một con người, và cả cái dự án du lịch kia, đều không bao giờ thực hiện được. Cho đến bây giờ, nó vẫn là một dự án treo.
– Ông ấy mất rồi. Lẽ ra ông ấy đã chết năm bảy mốt ở Tây Nguyên, khi chúng tôi lạc đơn vị một tuần, có lúc phải bắt sâu trên lá rừng ăn sống cho đỡ đói. Cánh tay tôi dập nát còn ông ấy bị đạn xuyên thủng bụng, ruột lòi cả ra ngoài. Hai đứa nằm ở gốc cây sa mộc dưới trăng, động viên nhau phải sống để sau này chiến tranh kết thúc cùng nhau xây dựng đất nước đẹp giàu. Và ông ấy, cũng như tôi, đã sống. Ôm con chó vào lòng, nhìn ra hòn cù lao phủ đầy lau trắng giữa sông đang nhòe dần trong sương bạc, ông im lặng hồi lâu rồi nói tiếp.
– Hết chiến tranh, chúng tôi về làng. Ông ấy lấy vợ đẻ con rồi đưa cả nhà vào núi ở, mua lại đất của một người dân ở đó và nhận thêm đất giao thầu của xã để trồng rừng và nuôi gia súc gia cầm. Quanh năm lủi thủi như con chồn con cáo, con don con nhím, chỉ biết cắm mặt làm lụng, không hề gặp gỡ một ai. Có lần tôi tìm vào thăm ông ấy, chỉ thấy một dải mịt mù xanh, chợt nghĩ không biết bạn mình có còn là người không hay đã hóa thành con khỉ con voọc trên rừng. Một tối mùa hè, có tiếng cú kêu trên cây trám ở sau nhà ông ấy, nó kêu suốt đêm làm cả nhà sợ hãi. Hôm sau vào lúc chính ngọ, khi đang ở rừng, có con ong vàng xuất hiện bay quanh đầu ông ấy mấy vòng. Biết là điềm chẳng lành, ông hốt hoảng bỏ dao bỏ cuốc chạy về nhà. Đến nơi thì nhà cửa chuồng trại đã bị phá nát, cán bộ xã cùng đám người xăm trổ vằn vện đứng đen cả bờ ao. Họ nói hơn chục hecta này đã được quy hoạch làm khu du lịch suối khoáng, mặc dù trước đó ông chưa từng nhận được thông báo và quyết định thu hồi. Ông chạy lên xã lên huyện hỏi, người ta trả lời rằng đất của ông là đất công ích, nay tịch thu lại, và không được bồi thường một xu.
Trong lúc giằng co, vợ ông bị một gã côn đồ xô ngã vào cái đinh, mấy ngày sau lên cơn sốt nhiễm trùng rồi chết. Thương người vợ tảo tần hiền thục, ông mang vợ ra bãi sông chôn và dựng lều trên đó ở. Cũng từ ngày ấy ông thường ngủ mơ thấy một con hạc bay về nơi đầu bãi, cất tiếng kêu thê thiết gọi ông đi.
Suốt chín năm trời, ông ôm đơn khiếu kiện tới khắp hang cùng ngõ hẻm. Chỗ thì xua đuổi, chỗ thì nói sẽ nghiên cứu giải quyết nhưng rồi vĩnh viễn không trả lời. Hình như họ muốn làm cho ông kiệt sức mà bỏ cuộc.
Ông ấy qua đời vào buổi sáng mùa thu, trời xanh ngắt không một gợn mây. Phút lâm chung, có con hạc trắng bay ngang bầu trời, tiếng kêu trong vắt. Ông gọi con trai lại, trao cho nó toàn bộ gia tài – một cái vại sành đào lên ở bãi bồi, trong đựng đầy giấy má đơn từ đã quăn queo vàng ố. “Đời bố bất lực, đời con tiếp tục đi đòi…” – ông nói rồi nhắm mắt. Tháng năm trôi, những người từng tịch thu đất của ông đã chuyển công tác hoặc về hưu, và trên cái nền nhà cũ bị băm vụn của ông, cỏ hoang đã xóa sạch lối vào, lau sậy trùng trùng phủ kín. Ước mơ đòi lại đất của một con người, và cả cái dự án du lịch kia, đều không bao giờ thực hiện được. Cho đến bây giờ, nó vẫn là một dự án treo.
***
Tin đồn về những chiếc máy xúc, máy ủi bị ma làm trong ngày đầu tiên thi công dự án khu du lịch sinh thái núi Bà khiến anh bồn chồn. Một sớm tinh mơ, gọi điện báo cáo tổng biên tập xong, anh phóng xe máy về làng Vải.
Tin đồn về những chiếc máy xúc, máy ủi bị ma làm trong ngày đầu tiên thi công dự án khu du lịch sinh thái núi Bà khiến anh bồn chồn. Một sớm tinh mơ, gọi điện báo cáo tổng biên tập xong, anh phóng xe máy về làng Vải.
Hôm ấy trời nhiều gió. Gió rét thổi ra từ núi, xao xác suốt một dải đồi. Qua
mấy chục cây số đường quanh co đèo dốc, anh đến vùng đồng bãi bên sông là cửa
ngõ dẫn vào làng Vải. Ngôi làng hiện ra ở ven đồi cọ, với dấu tích của đợt
cưỡng chế là những gốc cây bị đốn hạ sát đất, vài đống gạch đá vụn ngổn ngang.
Trên đỉnh núi Bà xanh xám, lơ lửng vài cánh nhạn bay. Khung cảnh tiêu điều,
vắng tanh vắng ngắt.
Giữa đồng, một chiếc máy xúc Doosan màu cà rốt với cần trục ngỏng lên như con
khủng long già vươn chiếc cổ dài, chết đứng. Trong gầu xúc, đất sét khô quánh
lại, bạc phếch, có một hạt cây đã kịp nảy mầm. Một chiếc xe tải Huyndai đỏ sậm
đậu ngay trước cần trục, thùng xe dựng đứng. Cách đó dăm chục mét, trên một
khoảnh đồi thấp, là chiếc máy ủi màu xanh lam hiệu Agromash loại mới của Nga.
Lẫn trong bùn đất bám đầy bánh xích là lá bạch đàn khô, vài vệt phân chim trắng
nhờ vương trên nóc buồng lái.
Một tiếng quạ kêu thảng thốt làm anh giật mình. Con quạ bay từ đồi ra, lượn
trên cánh đồng tím ngát cỏ may rồi đậu lên tấm biển báo công trường đổ nghiêng
trên một mô đất. Nó chăm chú nhìn anh bằng đôi mắt dè chừng, cảnh giác rồi vụt
bay lên, vừa kêu một hồi ghê rợn vừa bay mải miết về phía núi Bà.
Trở lại con đường đồi, anh cho xe đi dọc triền sông. Gió đưa lại từ bên kia
sông mùi đất mặn mòi và mùi thơm mát của những cánh đồng thì là, bắp cải. Xuôi
theo dòng nước bạc rờn rợn chảy, lấp lóa những vạt rừng trẩu lá vàng tươi. Gần
trưa, anh về tới khu đồi có ngôi lều của ông Thận.
Ông đang giăng lưới bắt cá ở ven sông. Bước lên bờ, mặt mũi tái xanh vì rét.
Những ngón tay khô quắt như chùm rễ cây đánh rơi que diêm mấy lần xuống đất,
khi ông dùng một tay châm lửa hút thuốc lào.
– Tôi không được tận mắt trông thấy ở đó xảy ra chuyện gì, vì công trường cắm
biển không ai được vào. Chỉ nghe người ta kể lại theo lời của công nhân lái
máy, là sáng hôm ấy, khi máy móc bắt đầu làm việc thì trên trời xuất hiện một
dải mây vàng. Chiếc máy xúc màu cam đổ được đúng mười gầu đất lên xe ben thì
đột ngột chết máy. Khi đó gầu xúc khựng lại ở gần đáy thùng xe, làm chiếc xe
vướng gầu không tiến cũng không lùi được. Người lái xe phải điều khiển trục
nâng ben, dựng thùng lên giống như khi đổ ben mới cho xe thoát ra được. Nhưng
xe vừa tiến lên được một mét cũng bị chết máy tức thì. Còn chiếc máy ủi màu
xanh thì ủi hết đám cây bạch đàn con và đống đất sỏi ven đồi mới chết máy.
– Ở mép sông, chỗ có cánh đồng hoa cải vàng, còn thấy chỏng chơ vài cái nữa…
– Sau khi loay hoay đủ kiểu cả xe và máy vẫn không khởi động được, hai ngày sau
họ điều thêm ba chiếc máy ủi, hai máy xúc gầu sấp và một máy xúc lật hiệu
Volvo. Có cái vừa tiến vào công trường đã chết máy luôn, có cái lồng lên chạy
lung tung như con trâu điên, một cái sa lầy ở gần sông còn một cái đào đất được
đến trưa thì bị lật xuống hố đào. Mấy chiếc xe tải đưa vào cũng tự dưng hỏng
cả.
– Theo ông thì nguyên nhân nào dẫn tới chuyện này?
Ông Thận nhồi thêm thuốc vào nõ điếu cày. Tiếng ông nhòa trong tiếng gió.
– Đó là sức mạnh của người âm. Đêm trước hôm nhà thầu khởi công công trình, dân
làng Vải đã tập trung làm lễ tại nghĩa địa của làng ở phía tây chân núi Bà.
Những hộ đã nhận và không nhận tiền đền bù đều có mặt. Mọi người cắm hương lên
tất cả các mộ, cầu xin mọi vong hồn ra tay cứu dân, và khi đống hương trên đàn
lễ vừa bén lửa đã bốc cháy dữ dội thì cả làng khóc òa. Ai cũng biết các hồn thiêng
đã về chứng giám. Tôi nằm gối đầu lên một ngôi mộ, cùng dân làng thức đến sáng.
Hôm ấy tối trời và rất rét, lửa hương trong nghĩa địa đỏ rực suốt đêm.
Anh lấy sổ tay ra ghi mấy chữ. Im lặng một lát, rồi hỏi:
– Ông có nhớ khi cầu khấn, bà con đã nói những gì không?
– Ngoài bài khấn của người chủ lễ thì mỗi người tự khấn theo ý của riêng mình.
Có người chắp tay hướng về phố huyện, nói những lời phẫn uất: “Cầu cho con
chúng mày sinh ra không có mắt. Cầu cho cháu chúng mày sinh ra không biết nói
tiếng người”.
– Chủ đầu tư và nhà thầu có biết việc này?
– Tôi nghĩ là họ không biết. Nghe nói giám đốc công ty Đại Hưng Phú tức tốc kéo
cả đoàn xe xuống hiện trường, mời cả mấy nhà khoa học ở đâu đó về nghiên cứu
suốt một ngày, chẳng ai giải thích được tại sao. Cuối cùng họ kết luận là có
bàn tay phá hoại.
Anh chia tay ông Thận lúc xế chiều. Không trở lại thành phố theo lối cũ, như
một người lữ hành đơn độc, anh đi về phía tây núi Bà. Trên dải đất cằn giữa hai
quả núi, nghĩa địa của làng Vải hiện ra, tĩnh mịch cổ xưa, cây xấu hổ và sim,
mua mọc trùm lên các mộ. Anh đứng đó rất lâu, hít thở mùi ngải cứu thoảng trong
gió thổi ra từ khe núi. Vào lúc anh sắp sửa rời gót, đường chân trời hiện lên
một màu đỏ thẫm, màu đỏ ma quái lan dần đến nửa bầu trời thì nhòe lẫn vào khối
mây quánh sệt như một vực sóng đen từ đâu bất ngờ tràn tới. Hai màu đen đỏ vần
vũ hòa trộn, cho tới khi không khí nhuốm hơi nước giá lạnh, và đâu đó bắt đầu
tiếng sấm, báo hiệu một cơn giông lạ lùng, hiếm thấy của mùa đông.
Anh ra về trong tiếng mưa âm âm. Con đường như dài ra mãi. Trong tiếng mưa gõ
xuống mặt đường, anh nghe mơ hồ tiếng nói. Cầu cho con chúng mày sinh ra không
có mắt. Cầu cho cháu chúng mày sinh ra không biết nói tiếng người…
***
Tổng biên tập gọi anh lên phòng ông từ sáng sớm. Trên chiếc bàn làm việc bằng
gỗ gụ màu nâu đỏ của ông có hai tờ báo trung ương in bài anh viết, một bài về
những tiêu cực trong dự án khu du lịch sinh thái núi Bà, bài kia là chuyện kì
bí tâm linh trong quá trình san lấp mặt bằng ở làng Vải. Tổng biên tập nói:
– Từ hôm qua đến giờ tôi phải trả lời mấy cú điện thoại hỏi về cậu, có người
yêu cầu phải kỉ luật cậu. Khu du lịch núi Bà là dự án đã được tỉnh phê duyệt,
cậu viết thế này không sợ mất đầu?
– Ai cũng lo giữ cái đầu, thì còn ai lên tiếng bênh vực dân hả chú?
– Cậu là con cua ngang bướng và cổ hủ. Cậu phải thấy rằng khi dự án hoàn thành,
người dân cũng được hưởng lợi chứ không chỉ chính quyền hay chủ đầu tư.
-Cháu chỉ thấy lợi ích nhóm, chưa hề thấy lợi cho dân. Tiền chui vào túi những
ai, chú quá biết.
– Biết cũng phải im mồm.
– Vâng thôi mặc, đất đai trong tay họ, họ muốn làm gì thì làm, nhưng điều trước
tiên là phải đền bù cho dân thỏa đáng. Một mét đất mà tính giá bằng năm bát phở
thì rõ ràng là ăn cướp, không phải đền bù.
– Ăn cây nào rào cây ấy. Tôi cho cậu nghỉ một ngày không phải để cậu về nông
thôn lấy tin viết bài chọc ngoáy tỉnh mình rồi đem in ở báo khác. Cậu làm báo
tỉnh thì phải bảo vệ tỉnh. Muốn tồn tại thì đừng có nhấp nhổm làm người hùng.
Sau vụ này, chưa biết chừng cậu mất hết.
– Cháu không vợ không con, có mỗi cái căn hộ bé bằng bao diêm, có gì để mà mất.
– Cậu đừng có nói cùn.
Tổng biên tập nói nhỏ nhưng gằn giọng, lạnh lùng. Anh lặng lẽ đi ra. Một phút
chần chừ, rồi quyết định bước vào phòng thư kí tòa soạn.
– Cái dại của mày là không dùng bút danh mà đề tên thật – Vừa thấy anh, trưởng
phòng thư kí tòa soạn nói luôn – Lấy bừa một cái tên vớ vẩn nào đó, ai hỏi thì
chối phắt, là xong. Mà cái chuyện ma nghĩa địa làng Vải mày viết là không đúng
sự thật đâu, tao lại được nghe một câu chuyện khác.
– Chuyện gì hả anh?
– Người ta nói, vô hiệu hóa mấy cái xe xúc xe ủi là do quyền năng của Chúa Bà.
Hai ngày trước khi nhà thầu khởi công, dân làng Vải đã lên núi dâng lễ tại đền
Bà, kêu Bà thương dân thì về giúp dân giữ đất. Bà đã giáng vào thân xác ông già
giữ đền, nói rằng đứa nào to gan dám cướp đất của dân thì chết với Bà. Máy móc
nào đem tới công trường Bà cũng cho biến thành sắt vụn ngay. Chuyện thật trăm
phần trăm đấy.
– Cũng có thể…
– Tao còn nghe kể, khi những tảng đất đầu tiên được lật lên thì ai cũng rùng
mình ngửi thấy mùi tanh, mà tảng đất nào cũng đỏ tươi như máu. Khi chiếc máy
xúc Doosan quay cần trục ca bin nửa vòng tròn trên bánh xích để đổ vào xe tải
gầu đất thứ mười thì trên trời xuất hiện dải mây vàng từ khoảng giữa đồng kéo
một vệt dài thẳng tới đỉnh núi Bà. Có tay lái máy trông thấy Bà đứng trên đỉnh
núi, giữa một chòm mây. Bà vấn khăn xanh yếm thắm, hô hét múa may. Chi tiết ấy
chắc bịa thôi nhưng việc Bà xuống tay trong vụ đất cát này thì tao tin là thật.
Còn tin này nữa mới quan trọng, mày biết chưa? Xe chở lãnh đạo huyện lên tỉnh
họp vừa lao xuống vực chiều qua, năm người cả chủ tịch và cán bộ tài nguyên môi
trường đi cấp cứu liền, chưa biết còn sống hay đã tịch.
– Tin quá nóng – Anh rút một điếu trong bao thuốc trên bàn, hào hứng – Cứ như
là cuộc chiến với người âm, đáng để viết thêm vài bài báo nữa.
– Còn mày, tao thấy mày quá tự tin -Trưởng phòng ngả người trên ghế, lim dim
đôi mắt sắc lẹm, nhìn anh – Một phóng viên quèn mà dám viết là chính quyền xã,
huyện câu kết với doanh nghiệp để tước đoạt đất sản xuất của dân. Mày nghĩ mình
là ai? Một con tép. Rồi mày xem, sẽ không có ai kỉ luật mày hết, nhưng người ta
có cách dạy dỗ mày.
Rồi ghé vào mặt anh bộ răng nhọn hoắt, thì thầm:
– Đừng có đùa dai. Mày có nghĩ là bọn doanh nghiệp Đại Hưng Phú sẵn sàng cho
người khử mày không? Nên nhớ là đường về nhà chung cư của mày thì xa, quãng
đường đê lại vắng và rất tối…
***
Đêm cuối của
cuộc đời, như nhiều đêm khác, một mình anh lặng lẽ giữa căn phòng chung cư. Bên
ngoài cửa, gió rét thổi âm u, và ở dưới xa, nơi bóng đêm chợn rợn trên những
vườn nhãn vườn xoài, có ánh lửa lập lòe trong ngôi làng cổ. Ngoài tiếng sáo từ
đâu đó văng vẳng trầm buồn, cả khu nhà ở ngoại thành đều yên tĩnh.
Anh nhớ tới mẹ. Mẹ sống một mình trong xóm vắng ở một miền đồi, nơi có con sông
nước đục cạnh đường tàu, nơi có khu vườn bốn mùa gió nắng, mỗi mùa xuân hoa táo
lại nở trắng ngần và lối ngõ gập ghềnh hằn lốt chân trâu quanh năm bốc lên mùi
khế ủng. Tóc vương tàn tro bếp, lúc nào mẹ cũng thương nhớ thằng con trai mải
mê việc xã hội, qua mùa đông chưa một lần thu xếp về thăm nhà.
Lúc này, lắng nghe cơ thể, anh vẫn thấy trong người bình thường. “Không lẽ một
cơn cảm lạnh lại bất ngờ ập đến và quật ngã mình. Còn nếu số mình chết vì bị
thủ tiêu, thì việc đó đã xảy ra trên đường đi làm về, lúc tối”. Thử vẽ ra trong
đầu đủ mọi trường hợp, anh vẫn không hình dung được, nó – cái chết, sẽ đến với
mình ở dạng nào.
Nó đến lúc nào thì mặc nó, anh nghĩ, và mở máy vi tính. Tâm trí anh vẫn bị hút
vào chuyện đất cát. Lên mạng tìm hiểu về các hình thức sở hữu đất đai trên thế
giới, anh tình cờ bắt gặp một chuyện hay. Khi xây dựng công viên giải trí
Disneyland, chỉ bởi một người dân có nhà trên mảnh đất này không chịu dời đi mà
người ta đã phải xây công trình theo kiểu đi vòng bọc quanh ngôi nhà của ông
ta, và hàng chục năm qua ngôi nhà ngoan cố lọt thỏm giữa công viên kia vẫn còn
ở đó. Cái chuyện lạ đời chỉ có thể xảy ra ở xứ người ấy làm anh nổi hứng viết
một bài báo. Anh cặm cụi gõ phím. “Nếu viết xong mà vẫn chưa chết, mình sẽ gửi
bài về một tòa soạn ngay”.
Ba giờ sáng, đột ngột có tiếng gõ cửa rất mạnh. Nó đã đến, anh nghĩ, và từ từ
đứng dậy. Cánh cửa phòng bật mở, kèm theo một luồng khí lạnh thốc vào.
– Con bé nhà em sốt quá, chồng em đi công tác vắng, phiền anh giúp em đưa cháu
ra bệnh viện. Thấy phòng còn sáng điện, em liều đến nhờ anh…
Thì ra là chị hàng xóm ở cùng tầng mà anh mới chỉ gặp đôi lần. Gương mặt trắng
xanh, nhợt nhạt như nụ hoa đêm, giọng chị run run vì lo lắng.
Vài phút sau hai người đã ra đến con đường đất giữa cánh đồng. Con bé được ủ
ấm, chị ngồi sau xe máy ôm nó và ép sát vào anh. Anh nghĩ đến mẹ già, đêm đông
giá buốt nơi miền xa. Lại nghĩ đến ông Thận và con gái ông, trong một đêm gió
lộng thế này, làm sao cho khỏi rét.
Bệnh viện ở cách làng năm cây số. Đến nơi, con bé được tiêm ngay. Khi nó hết
sốt, anh để chị ở trong phòng bệnh với con rồi ra chiếc ghế đá lạnh cóng ngoài
sân, bên bụi trúc đào, lật mũ áo phao bọc kín đầu, nằm co quắp. Phút cuối đời
mình làm thêm được một việc tốt, anh nghĩ, và bây giờ chết cũng được rồi.
Gần sáng anh thiếp đi và mơ thấy mình bé lại như hồi thơ ấu, cùng bọn trẻ con
đi xúc tép ở con suối nhỏ dọc chân núi. Trời mùa đông, tuyết trắng xóa viền
quanh núi mà đứa nào cũng tím ngắt trần truồng. Khu du lịch sinh thái ở đây mới
được khánh thành, có cả hồ nước, sân gôn. Một chiếc máy xúc Doosan đỏ như con
rồng lửa vẫn nghễu nghện trên đỉnh đồi cao, vươn cần trục lên trời xúc từng
tảng mây và đổ xuống chân đồi từng gầu xanh biếc. Nó xúc mãi đến lõm cả bầu
trời. Giữa dòng suối đen như mực ngập ngang bụng, anh và lũ trẻ bì bõm lội, mỗi
thằng cầm một cái rổ to. Xúc mãi chỉ được hàng vốc bao cao su, những cái bao
nhớt nhát bầy nhầy đêm ngày trút xuống như mưa từ ô cửa màu hồng của nghìn tầng
khách sạn…
***
Anh tỉnh dậy khi nắng đã chan hòa trong bệnh viện. Không kịp ngạc nhiên khi
thấy mình còn sống, anh chạy vào phòng thăm con bé. Người mẹ đang cho nó uống
sữa, và ngước nhìn anh bằng gương mặt mệt mỏi mà xinh đẹp, chị mỉm cười.
Nửa giờ sau, anh phóng xe vào thành phố. Nắng rực rỡ trên mái nhà, vườn tược,
hàng cây. Sắp qua một mùa đông, hiếm có buổi sáng nào nắng ấm, đẹp và vàng như
vậy.
Đến một cây cầu bê tông bắc qua dòng sông nhỏ, điện thoại reo, anh dừng lại. Cô
bạn thân làm ở văn phòng ủy ban tỉnh báo một tin bất ngờ: Chủ tịch tỉnh đã ra
chỉ thị xem xét lại dự án núi Bà, điều chỉnh khung giá đất đền bù cho phù hợp
giá thị trường và mức giá của nhà tái định cư. “Bất luận trong hoàn cảnh nào,
cũng phải lấy lợi ích của dân làm tối thượng”, chủ tịch nói.
Nắng pha lê vàng óng, trong veo chảy trên lá bằng lăng cuối mùa đỏ thắm. Cái
tin mới làm anh xốn xang hơn cả niềm vui thấy mình còn sống, sáng nay.
Tới ngã tư, có chiếc mô-tô phân khối lớn lao vút ra từ nhánh đường giao cắt với
hướng đại lộ anh đi. Nó vọt qua vòng xuyến với tốc độ cao và đâm thẳng vào anh
khiến anh bắn tung khỏi xe như một viên sỏi. Trước khi ngã lộn hai vòng xuống
mặt đường, anh kịp thấy hai kẻ ngồi mô-tô vận đồ đen, mũ bảo hiểm đen sì có hàm
che kín mặt.
Ngày chủ nhật, đường vắng, không ai đỡ anh dậy. Chiếc Harley-Davidson với tiếng
động cơ như sấm rền mất hút về phía trung tâm thành phố. Có vẻ như họ chỉ gửi
một đòn cảnh cáo, không có ý định giết anh.
Năm phút sau, anh nhìn máu mình vương trên vũng nắng vàng tươi, chầm chậm lên
xe và rẽ vào lối khác.
Nắng vẫn long lanh dát vàng trên mặt đất.
Anh đi trong nắng huy hoàng§
(Nguồn: vannghethainguyen.vn)
Nhận xét