5380. Lộng quyền, khai quốc công thần nhận án tử
PNTB: Câu chuyện Tể tường Lê Sát thời Lê Sơ, một khai quốc công thần, nhưng đã lộng quyền, tham quyền cố vị không biết điểm dừng nên cuối cùng phải chịu án tử. Thế mới biết, dù là chế độ "Phong kiến thối nát", pháp luật vẫn nghiêm, không có vùng cấm nào, đến Tể tướng còn bị chém thì quan thượng thư là cái đinh.
Pháp luật nghiêm như thế, mà rồi cũng chẳng triều đình nào MUÔN NĂM được cả. Bền lắm thì cũng chỉ được vài trăm năm là kềnh kếnh cang, ò í e thôi. Sự SA ĐỌA, THAM LAM VÔ ĐỘ, CẢ TIỀN, CẢ QUYỀN, COI DÂN NHƯ CỎ RÁC... CỦA QUAN CHỨC TRIỀU ĐÌNH là nguyên nhân của mọi sự sụp đổ trong lịch sử, để nhường chỗ cho một triều đình tiến bộ hơn. Âu cũng là quy luật.
(PLO) -Vốn là khai quốc công thần của nhà Lê sơ
(1428-1527), Lê Sát có lúc quyền cao tột bậc, một tay điều hành việc nước thay
cả vua nhỏ tuổi.
Nhưng khổ
nỗi, vì không biết bao nhiêu là đủ, đến nỗi sau đó, thân bị lụy, danh bị ô, âu
cũng là bài học cho những ai còn mong “tham quyền, cố vị”.
Nơi “Bình
Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi có cho hay cuộc khởi nghĩa chống Minh của Lê Lợi “Núi
Lam sơn dấy nghĩa/Chốn hoang dã nương mình”… “Vừa khi cờ nghĩa dấy lên/Chính
lúc quân thù đang mạnh”. Và những tuấn kiệt ban đầu tham gia đoàn quân chống
phương Bắc đô hộ ấy, có Lê Sát. Bởi Lê Sát, như ghi chép trong “Đại Việt thông
sử”, là người làng Bỉ Ngũ ở Lam Sơn.
Góp công
dựng nhà Lê
Có mặt
trong đoàn quân vị nghĩa vì nước ấy, Lê Sát góp phần lập nên bao chiến công
hiển hách, trở thành một trong những công thần khai quốc bậc nhất của nhà Lê
sơ, mà trong “Nam quốc vĩ nhân truyện” có gói gọn là “Ông chém được Liễu Thăng,
và bắt sống được Hoàng Phúc.
Chiến công
của ông rất nhiều”. Vậy, cụ thể công lao của công thần họ Lê ra sao? Cứ xem
những chính tích ông lập được, sách “Đại Việt thông sử” chép lại tường tận, hẳn
rõ.
Chiến công
đầu tiên của Lê Sát được ghi lại, ấy là vào năm Canh Tý (1420), khi ông cùng Lê
Triện được sai đi đánh Tạ Phượng, Hoàng Thành ở trại Quan Du (thuộc Quan Hóa,
Thanh Hóa ngày nay), ông đã lập công phá thành “chém hơn nghìn tên, làm cho thế
giặc ngày một suy”.
Tiếp đó là
chiến công năm Giáp Thìn (1424) khi đánh tan quân Trần Trí, Sơn Thọ, vây thành
Nghệ An. Với sự kiện ấy “từ đó thế quân lừng lẫy”.
Khi cuộc
khởi nghĩa đang trên đà thắng lợi, viện binh nhà Minh kéo sang. Năm Đinh Mùi
(1427), khi An Viên hầu Liễu Thăng cầm đầu 20 vạn quân kéo sang, ông được lệnh
cùng Lưu Nhân Chú, Lê Linh phòng giữ các ngã, mai phục địch nơi ải Chi Lăng.
Lê Sát, Đinh Liệt đem quân và voi trận phục sẵn ở Chi Lăng đánh Liễu Thăng |
Kết quả, Liễu Thăng rơi đầu nơi sườn Mã Yên, viện binh Minh đại
bại. Đến trận hạ thành Xương Giang tháng 10 năm ấy, 5 vạn địch rơi đầu. Cái
cảnh mà “Bình Ngô đại cáo” miêu tả dưới đây, chính là trận ấy:
“Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ”.
Trận ấy, được Lê Quý Đôn nhận xét là “Có lẽ từ triều Trần bắt được
Tích Lệ Cơ, Ô Mã Nhi cho đến lúc ấy, nước Nam thắng giặc phương Bắc, chưa có
trận nào lớn như vậy”. Và với riêng Lê Sát thì “Trong chiến dịch này, công của
ông đứng đầu các tướng”. Ghi chính tích của ông, trong “Ngự chế Việt sử tổng
vịnh” mới ca rằng:
“Chi Lăng mai phục chính mưu cao,
Giết Liễu bắt, Thôi chiến thắng nhiều”.
Nhiếp chính phò ấu chúa
Ra công, gắng sức cho nền độc lập, tự chủ của nước nhà, góp công
lớn cho sự thành lập nhà Lê năm Mậu Thân (1428), cũng như nhiều khai quốc công
thần khác, Lê Sát được tưởng thưởng công lao dựng nghiệp cho dòng dõi vua đất
Lam Sơn.
Ghép chép nơi “Đại Việt sử ký toàn thư”, thì sau khi lên ngôi, vua
Lê Thái Tổ phong thưởng các công thần, riêng Lê Sát được ban hiệu Suy trung Tán
trị Hiệp trung mưu quốc công thần Nhập nội Kiểm hiệu Tư khấu Bình chương quân
quốc trọng sự. Đến năm sau, khi khắc biển tên 93 công thần, tên ông đứng hàng
thứ hai, được phong làm Huyện thượng hầu. Lê Sát trở thành một trọng thần của
triều đại.
Cuối đời vua Lê Thái Tổ (1428 - 1433), ông được gia phong làm
Dương vũ Tĩnh nạn công thần, thăng Đại Tư đồ, được tin tưởng giao việc giúp rập
cho vua tương lai là Lê Thái Tông. “Lê triều ngọc phả” cho hay, vua Lê Thái
Tông, vốn là Hoàng Thái tử Nguyên Long, lên ngôi thay vua cha băng hà năm Giáp Dần
(1433) khi tuổi mới 11. Sang năm Đinh Mão (1434), “do là bậc có công đầu, ông
được làm thủ tướng”.
Lê Sát lấn quyền vua Lê Thái Tông |
Vua còn nhỏ tuổi, Lê Sát đứng đầu đội ngũ công thần, hăng hái giúp
vua việc nước. Hiềm nỗi, do là quan võ, xuất thân từ chiến trận, không có gốc
nền văn học, lễ nghĩa, tính tình lại nóng nảy, quyết việc theo ý riêng của bản
thân nên dần dần, Lê Sát trở nên chuyên quyền, lấn áp cả vua nhỏ tuổi, gây nên
bao nhiêu việc nhiễu nhương nơi triều chính, tội Lê Sát bởi vậy ngày một đầy
lên.
Cứ theo ghi chép trong “Khâm định Việt sử thông giám cương mục”,
tội lỗi của vị trọng thần họ Lê, quả là nhiều lắm lắm. Nào là vì ghét Lưu Nhân
Chú mà vu cáo tội lỗi rồi giết đi. Những vị quan không vừa lòng, thì hoặc biếm
chức, hoặc cho lưu đày đi nơi xa, tỉ như Đồng tri Bắc đạo Bùi Ư Đài vì tâu xin
chọn các kỳ lão vào hầu để khuyên răn vua nhỏ,
Lê Sát giận, giao cho ngục quan xét hỏi, khép vào tội ly gián vua
tôi, buộc vua lưu đầy Ư Đài, dù vua không muốn... Bởi việc lấn quyền diễn ra
mãi thế, trong khi vua dần khôn lớn, để rồi sinh ra cái án lụy thân.
Cái án lấn vua
Bài học của tiền nhân, Lê Sát không theo, đến nỗi thân bị lụy.
“Ngự chế việt sử tổng vịnh” ghi rằng:
“Chỉ có Hoắc Quang sao chẳng học,
Huống hồ vô học lại càng sâu”.
Sự thể cho cái án lấn vua của Lê Sát, nơi “Việt sử yếu” ghi: “Sát
cậy công kiêu căng, làm nhiều điều coi thường pháp luật. Khi nhà vua đích thân
nắm giữ triều chính, Ngài liền giết Sát đi”. Để khép Lê Sát vào tội chết, cũng
phải có nguyên cớ của nó, bởi dù sao, như trong “Đại Nam quốc lược sử”, Alfred
Schreiner đã bình rằng Lê Sát là “chư tướng trung thần hơn hết của vua cha”,
lại công lao hiển hách, là trọng thần nữa.
Vua đã khôn lớn, có thể quyết được chính sự, nhưng Sát vẫn giữ
quyền xử đoán. Sự bất mãn của vua Thái Tông vì sự lấn quyền của Lê Sát càng lúc
càng đầy. Năm Đinh Tỵ (1437), theo “Việt sử cương mục tiết yếu” cho biết, vua
vì biết Lê Ê, Lê Hiêu là thân thích của Lê Sát, trong khi Trịnh Khả hiềm khích
với Sát,
những mong giảm bớt vây cánh của viên trọng thần này, ngài bèn cho
bọn Lê Ê làm quan cõi ngoài, lấy Trịnh Khả coi cấm quân. Lê Sát thấy vua làm
thế, thì không vừa lòng, phản đối. Vua lấy làm giận lắm, và cơ sự bắt đầu.
Vua Lê Thái Tông bắt Lê Sát dùng tam ân triều điển
|
Vua đem việc ấy, nói với các ngôn quan (những người có chức năng
đàn hặc, can gián) Đinh Cảnh An, Nguyễn Vĩnh Tích. An và Tích liền làm sớ dâng
lên vua, hặc tội Lê Sát chuyên quyền. Vua nhận sớ ấy “giao xuống cho pháp ty
xét hỏi”. Dẫu Lê Văn Linh và Nguyễn Ngân đều là những công thần ra sức bênh vực
hòng gỡ tội cho Sát, nhưng vua không nghe, xuống chiếu kết tội rằng:
“Sát ghen ghét người hiền tài, chuyên quyền làm oai làm phúc, giết
Nhân Chú, truất Trịnh Khả, đầy Ư Đài, đuổi Cầm Hổ. Xét hành vi của Sát, đều
không phải phép tắc của người bề tôi. Nhưng nghĩ là viên cố mệnh đại thần, nên
đặc cách khoan tha, cách hết chức tước”.
Những tưởng việc định tội đến đây là dừng, viên cố mệnh đại thần
sẽ trở về phận dân thường. Nhưng số mệnh của Lê Sát không được chu toàn như
thế, bởi sau đó không lâu, vào tháng 7 năm ấy, Sát bị tố cáo là nuôi bọn võ sĩ
Lê Thảo làm thích khách để hại Nguyễn Ngân.
Vua nhận được tin tố cáo ấy, giận lắm, liền xuống chiếu “Sát nay
lại nuôi sĩ tử, mưu hại bậc trung lương, đáng chém để rao quân”. Sau đó, Lê Sát
được cho tự quyết định số phận của mình, chết tại nhà thay vì bị chém bêu thân.
Còn vợ con, tài sản đều bị tịch thu hết. Thế là từ bậc trọng thần quyền cao
chức trọng bậc nhất nhà Lê, Lê Sát trở thành một tội đồ của nhà nước. Ranh giới
giữa công, tội, mong manh lắm thay. ../.
Nhận xét