5256. Marinet

Marinet
Vũ Thư Hiên
PNTB: Đoạn hồi ký này ông Vũ Thư Hiên viết về hồi bị giam ở trại Phong Quang (thuộc huyện Bảo Thắng - nơi mình công tác). Hồi ấy cứ thấy người ta gọi Trại 1, để phân biệt với Trại 2 (cùng địa bàn huyện) ở khu vực xã Phong Hải. Trại giam Phong Quang là nơi đồi rừng thâm u giáp ranh giữa 2 xã Phong Niên và Xuân Quang, có lẽ cái tên Phong Quang ra đời từ đó. Tất nhiên, hồi ấy (1974) mình không hề biết có một nhà văn, nhà báo cao cấp của Tạp chí Cộng sản (con trai cụ Vũ Đình Huỳnh, người phục vụ, kề cận Chủ tịch Hồ Chí Minh) lại bị giam ở đây. (Hệ lụy của 'trận đánh nội bộ' với những người CS theo 'chủ nghĩa xét lại Khrushchyov (Ники́та Серге́евич Хрущёв)
(VTH) Tự nhiên nhớ đến một bạn tù hẳn đã không còn và chẳng để lại dấu vết. Nhớ và thương. Đưa mấy dòng hồi ức về con người bất hạnh ấy lên đây để các bạn của tôi biết có một người như thế đã từng sống trên trái đất.
 MARINET
- Malêlết ló mốn cặp (gặp) mày! - Cố Thủ Chẩu đứng trước mặt tôi, ngúc ngắc cái đầu húi cua, nói bằng giọng khàn khàn. 
- Có chuyện gì thế? - tôi nhìn đôi mắt một mí không chớp của anh ta. 
- Khôông pết! - Cố Thủ Chẩu nói. 
- Sao lại không biết?
- Ló bảo ngộ tến lói. 
- Sao anh ta không tự đến?
Cố Thủ Chẩu nhăn nhó:
- Mà mày pằng lòng chớ, có không?
Cố Thủ Chẩu dặng hắng, đôi mắt tròn xoe đã bắt đầu mờ đục buồn rầu nhìn tôi. Tôi kiên nhẫn chờ, nhưng mãi vẫn chẳng thấy anh ta nói gì. 
"Rõ ngốc!" Tôi rủa thầm tôi ngu. Ai cũng biết Cố Thủ Chẩu nói tiếng Việt không sõi. Mỗi lần phải dùng đến tiếng Việt là một lần anh ta mệt. Chỉ nghĩ đến phải nói tiếng Việt là anh ta đã muốn thở rốc, gương mặt đặc Tàu đờ đẫn hẳn ra trên cái cổ bạnh như cổ trâu. Trong đám tù chính trị họ Cố nổi tiếng hà tiện lời vì lẽ đó. Ngay cả với cán bộ trại anh ta cũng chẳng buồn trả lời khi họ hỏi. Lúc đầu họ còn nổi sùng, riết rồi quen.
- Thì ít nhất cũng phải cho tôi biết có chuyện gì chứ. - tôi nói. 
Tôi vừa viết vội cho xong bản báo cáo hình thức hàng tháng về lớp bổ túc văn hóa trại để nộp lên Ban giáo dục trại vừa cố đoán tiếp lý do khiến Marinet muốn gặp tôi. Trong trại mấy ngày qua mọi chuyện đều bình thường. Cả tuần chẳng có sự cố gì đặc biệt. Mà Marinet muốn gặp tôi theo kiểu này, có hỏi trước, nghĩa là phải có vấn đề. Từ khi tôi được Ban Giám thị cử làm chân “văn hóa trại” thì, theo một thỏa thuận không thành văn được toàn thể tù nhân tán thành, những người tù có chuyện lủng củng với nhau không báo cáo vụ việc thẳng với cán bộ như trước nữa mà đến bàn với tôi để tìm cách giải quyết nội bộ. 
Cố Thủ Chẩu cụp mắt xuống, chân nọ gãi chân kia:
- Malêlết pảo thế! Ló mốn nhều. 
Tôi gật đầu:
- Được, tôi sẽ đến. 
- Tố hảo a!
Cố Thủ Chẩu nhe răng cười hài lòng, bỏ đi.
Tù ở trại A Phong Quang không đông, lối năm trăm nhân mạng là cùng, phần lớn là số lẻ. Như ở bất cứ trại nào, những người tù ít khi chơi thân với nhau. Người ta sợ, cái sợ cố hữu được Đảng cấy vào người họ, nó bám theo họ vào trong tù, cộng thêm cái sợ mới sinh ra bởi hệ thống ăng-ten dày đặc và thói quen bẩm báo để kiếm chác. Để tạo ra những ốc đảo an toàn, những người tù họp lại với nhau thành những nhóm nhỏ, gồm những người đã quen biết nhau ở ngoài hoặc những người đã được quan sát kỹ, thậm chí đã được thử thách trong cuộc sống giam cầm. Thường mỗi nhóm như thế chỉ hai người một, ba người một, gọi là gia đình, hiếm khi đông hơn. Tuy không giao du với nhau, nhưng cùng trong một trại, ra đụng vào chạm chan chát, mọi người đều nhẵn mặt nhau, thậm chí quen nhau tuốt tuột, có thể nói như thế. Chẳng hạn, tôi không phải bạn Cố Thủ Chẩu, ấy thế mà gặp nhau chúng tôi bao giờ cũng chào hỏi xã giao như những người quen biết, dù sau đó chỉ nói với nhau đôi ba câu bâng quơ.
Marinet, hay Malêlết theo cách phát âm của Cố Thủ Chẩu, là một cái lạ của trại Phong Quang. Mà có thể nó còn là cái lạ trong mọi trại giam. Lần đầu tiên tôi gặp trong bộ lạc tù số lẻ một người Âu. Một người Âu trăm phần trăm, Âu hoàn toàn, từ đầu đến chân - mũi lõ, tóc vàng, mắt xanh, da trắng. Không phải tây lai. Lại không phải phi công Mỹ. Cũng không phải tù binh còn sót lại của chiến tranh Đông Dương. Nghĩa là không thể nào giải thích được vì sao anh ta lại có mặt giữa vùng lam sơn chướng khí chỉ dành cho bọn tù số lẻ, lũ kẻ thù giai cấp của chính quyền vô sản. Mà khốn nạn làm sao, anh chàng lại không biết tiếng Việt để có thể trò chuyện với bạn tù, để cảm thấy đỡ cô đơn trong cảnh sống bị trói buộc. Cán bộ trại gọi tên anh ta theo hồ sơ hay anh ta tự xưng không biết, nhưng mọi người đều gọi anh ta là Ma Ri Nết. Chắc là tên chứ không phải họ.
Lầm lũi như một cái bóng, cao lênh khênh, nước da xanh xao, cái nhìn bất động, Marinet ngồi yên lặng xếp hàng trên sân trại mỗi buổi sáng chờ đi lao động. Khi đội anh ta được gọi tới, anh ta lẳng lặng đội nón lên đầu, đứng dậy cùng đi với các bạn tù. Bên cạnh những người tù thấp bé, ốm o, Marinet trong hình hài lênh khênh, tách ra khỏi đám đông xám xịt. Như một Gulliver ở xứ người Liliput, anh nhẫn nhục sống, lẳng lặng đi, lẳng lặng làm.
Theo lời kể của những người tù, thường tò mò và thích ngồi lê đôi mách, thì Marinet là một thương gia Hà Lan chuyên buôn bán mễ cốc trong vùng Thái Bình Dương. Sự có mặt của anh ta ở đây được giải thích bằng một nguyên nhân không cần tới lô-gích. Ấy là anh ta bị Chúa trừng phạt. Theo lời họ, câu chuyện là thế này.
Marinet vì quá sốt ruột muốn hưởng ngay lập tức phần gia tài kếch sù được ghi trong di chúc của ông nhạc, đã mưu mô với vợ đầu độc ông ta. Vụ giết người không bị phát giác. Nhưng oan hồn ông bố vợ không tha cho Marinet. Trong một chuyến áp tải hàng trên Thái Bình Dương, giữa bữa rượu mừng sinh nhật mình, Marinet say túy lúy đã rơi tõm xuống biển mà không ai biết. Nhưng Marinet không chết. Marinet dạt vào Việt Nam.
Chắc hẳn Marinet có kể cho ai đó, cho nên người ta mới biết chuyện này. Chứ nếu anh ta không kể thì ai có thể bịa ra câu chuyện với những chi tiết như thế được? Mà chẳng cứ bạn tù, các cán bộ trại cũng tin câu chuyện đó. Hẳn Marinet đã khai với công an như vậy. Mà cũng có thể Marinet kể cho Cố Thủ Chẩu nghe, rồi Cố Thủ Chẩu kể lại cho người khác. Trong trại Marinet chẳng chơi với một ai trừ Cố Thủ Chẩu.
Cố Thủ Chẩu là thổ phỉ. Nhưng trông họ Cố lại chẳng có thớ ăn cướp tẹo nào. Đậm người, đi đứng chậm chạp, tay chân vụng về, da mặt bóng nhẫy, trông Cố Thủ Chẩu có vẻ một ông chủ tiệm chạp phô ở một thị trấn hẻo lánh vùng biên giới. Để làm một tên cướp, họ Cố có vẻ người lù đù quá, khờ khạo quá, trong đối nhân xử thế thì lại tử tế quá, ân nghĩa quá. Cố Thủ Chẩu cũng dân “boọc”, cũng án tù mù. Từ bên Lào sang họ Cố được phiên vào một toán số lẻ, mặc dầu thổ phỉ là tội thuộc số chẵn.
Làm xong công việc hàng ngày của anh văn hóa trại, nghĩa là có mặt trong giờ điểm danh, đi kiểm tra vệ sinh lán trại, treo báo luân phiên trong các khu cho anh em tù đọc, tôi lững thững đi gặp Marinet. 
- Chào đồng chí!
Đôi mắt xanh biếc của Marinet cười rộng, bàn tay to và xương xẩu xiết chặt tay tôi. Chưa hết ngạc nhiên với câu chào của Marinet, tôi đã bị anh lôi vào trong nhà.
Chúng tôi theo nhau trèo lên tầng trên cái giường chạy dài suốt năm gian. Giang sơn của Marinet là một manh chiếu, sát vách là khối chăn màn vuông vức, kể cả tay nải. Marinet nghèo, anh không có cái hòm gỗ mộc như những dân “boọc” số lẻ khác (là những người ít tin ở ngày về hơn bất cứ thứ tù nào). Cũng khác với tất cả, bên trên vách, ở đầu chỗ nằm của anh, có một thập giá tết bằng lá cọ non, đã khô xác và xám xịt vì lâu ngày. Theo nguyên tắc trại giam, những người tù theo đạo Thiên Chúa không được phép treo thập giá ở đầu giường, nếu ai treo cán bộ trại sẽ thu rồi quẳng đi, nhưng Marinet được hưởng ngoại lệ. Dù sao anh ta cũng là người nước ngoài.
Không vội vã Marinet châm đóm. Lửa bùng lên trong bóng tối ẩm ướt buổi sáng đầu đông có sương mù, tạo ra không khí ấm cúng. Tay phải Marinet cầm đóm huơ những vòng lửa nhỏ dưới trôn cái ống bơ cầm chắc trong tay trái, nước trong ống bơ chẳng mấy chốc đã sôi sùng sục. Trong tù, thủ tục tiếp khách bao giờ cũng trang trọng. Cái bát men thủng làm bếp, ống bơ sữa bò làm ấm đun, cái ca men sứt sẹo thay ấm pha, chén đựng trà làm bằng nứa tép cắt ngắn - bộ đồ trà của tù là thế. 
- Mời! - Marinet đưa cho tôi một chén trà nóng bỏng bằng hai tay. 
- Mời! - tôi nâng chén, cũng bằng hai tay.
Chúng tôi lẳng lặng thưởng trà như hai nhà ngoại giao đại diện cho hai dân tộc Âu-Á trong một cuộc gặp gỡ vào những thế kỷ đã xa.
- Anh không lấy làm lạ thấy tôi gọi anh bằng đồng chí sao?
Marinet nheo mắt cười qua hơi nước sôi nghi ngút. Hóa ra anh ta biết tiếng Việt. Mà biết không tồi.
- Thú thật, tôi lấy làm lạ. – tôi nói - Ở trong tù người ta không gọi nhau như thế. Tôi nghĩ anh chưa rành tiếng Việt. 
- Tôi cố ý. Tôi nói có cân nhắc - Marinet nói. 
- Thật vậy à?
- Tôi quan sát anh từ khi anh vừa tới trại này. Mọi việc anh làm, nhân cách của anh, kể từ khi anh làm văn hóa trại, đều được chúng tôi theo dõi. - Marinet nhẩn nha giải thích - Và tôi kết luận: anh là một người cộng sản. 
Một kết luận kỳ cục, tôi nghĩ. 
- Vâng, một người cộng sản. - Marinet nói thêm - Như tôi. 
Tôi nhìn Marinet, không nói được lời nào. 
- Vâng, tôi là đảng viên Đảng cộng sản Trung Quốc. 
Tôi còn sửng sốt hơn nữa:
- Anh? Là đảng viên Đảng cộng sản... Trung Quốc?
- Vâng. 
- Cả Cố Thủ Chẩu?
- Không, Cố Thủ Chẩu khác. - Marinet cười khe khẽ, lắc đầu - Anh ta là người của Khun Sa, vua Tam Giác Vàng. 
- Tôi lại càng không hiểu... - tôi nói – Hoàn toàn không hiểu.
Sao mà cuộc đời lắm chuyện lạ lùng đến thế? Tôi chờ đợi nhìn Marinet. Anh nhẩn nha uống ly trà đặc. 
- Người ta nói anh còn là écrivain (nhà văn) – Marinet uống xong ly trà rồi mới đủng đỉnh hỏi - Phải vậy không?
- Trước kia cũng có lúc tôi làm công việc viết lách. 
Tôi miễn cưỡng xác nhận. Tôi không thích nghe ai nói tới cái tôi trước kia. 
Marinet pha tuần trà thứ hai. 
- Hôm nay tôi muốn gặp anh chính là để kể cho anh về những cái tôi vừa nói, về cuộc đời tôi... Nếu anh muốn nghe... 
Tôi vội vã trả lời: 
- Tất nhiên, tôi muốn nghe. 
Marinet cười:
- Tôi biết mà, tôi không lầm khi chọn anh để nói về những bí mật của đời tôi. Mà cuộc đời tôi đáng được kể lại... Nó không giống những gì anh đã nghe đâu. Đó là chuyện bịa. Gặp anh tôi mừng lắm. Không phải ai cũng may mắn được gặp một écrivain ở trong tù.
Chao ôi, số phận tôi mới kỳ cục làm sao! Cứ như thể tôi sinh ra chỉ để làm một việc duy nhất là làm nhân chứng cho những sự kiện, đặc biệt là cho những sự kiện không bình thường. Mà những sự kiện không bình thường thì ở trong nhà tù vô số kể. Chẳng hạn như Marinet đây.
Mà Marinet cũng chẳng phải là người nước ngoài đầu tiên tôi gặp trong tù.
 Trước Marinet tôi đã gặp một người khác - một thanh niên Triều Tiên. Tôi gặp anh chàng họ Kim này tại Tân Lập, mùa thu năm 1971. Cũng là một dân số lẻ, cũng “boọc”. Lạ lắm. Mà cũng bi thảm lắm. Tôi sẽ kể về anh chàng này sau.
Marinet nói tiếng Việt còn kém, nhưng hiểu tốt. Anh sợ người ta tò mò về anh, thành thử anh chỉ chăm chú nghe mọi người nói rồi quay mặt vào vách mà lẩm bẩm những lời học được ban ngày, người không biết tưởng anh cầu nguyện Chúa. Gặp những từ anh chưa biết, hoặc quên mất, Marinet chêm tiếng Pháp, tiếng Anh vào. Cuộc đối thoại lúc đầu có trục trặc chút ít, nhưng chúng tôi mau chóng tìm được cách hiểu nhau.
Câu chuyện Marinet kể như sau:
Anh là người Trung Quốc tính theo quốc tịch. Nhưng về dòng máu, Marinet là người Hà Lan. Cha của Marinet, một bác sĩ, là con một gia đình trí thức nghèo ở Amsterdam. Ông học nghề thày thuốc theo truyền thống gia đình - cụ nội Marinet làm nghề cứu nhân độ thế, ông nội Marinet nối nghiệp. Có một con trai, cụ cho vào trường y. Ngay sau khi ra trường, cha của Marinet xin đi thực tập tại Trung Quốc. Sở dĩ ông chọn nước này vì ở đây có điều kiện tốt cho một bác sĩ trẻ trưởng thành, có thể mau chóng trở thành bác sĩ lành nghề. Trung Quốc vào đầu thế kỷ XX là một nước lạc hậu, nghèo nàn, luôn có dịch bệnh. Người thày thuốc được điều trị nhiều thì chóng giỏi. Hơn nữa, lương trả cho bác sĩ thực tập ở một bệnh viện Hà Lan tại Thượng Hải, nơi ông phải tới, cao hơn ở các nước khác. Mẹ Marinet người Trung Quốc chính gốc, cũng sinh viên ngành y. Là một thanh niên đầy nhiệt huyết cách mạng, bà lôi kéo người bạn Hà Lan vào những hoạt động của lớp thanh niên thiên tả thuộc thế hệ bà. Họ yêu nhau, rồi cả hai cùng gia nhập Đảng cộng sản. Khi lực lượng cách mạng rời các thành phố duyên hải chuyển vào sâu nội địa, tiếp đến cuộc Vạn lý Trường Chinh lên phía Bắc, đôi vợ chồng trẻ với đứa con năm tuổi đã cùng Mao Trạch Đông, Bành Đức Hoài, Chu Đức vượt qua những gian khổ không kể xiết lên tới tận căn cứ địa Diên An.
Marinet lớn lên trong lòng cuộc cách mạng Trung Quốc. Mẹ anh qua đời vì một cơn bạo bệnh thiếu thuốc chữa. Cha anh suy sụp hẳn sau cái chết của bà. Ông làm việc như một cái xác không hồn. Sau này, lớn lên, Marinet mới tôi biết ông không bao giờ tha thứ cho Đảng của ông về cái chết của vợ. Dường như thuốc để chữa cho mẹ anh lúc bấy giờ có, nhưng nó đã được dùng một cách vô ích cho một trường hợp khác, chỉ vì Mao Trạch Đông muốn biểu diễn sự quan tâm của ông ta tới một đối thủ chính trị.
Marinet trở thành chiến sĩ Hồng quân rất sớm, anh vào Đảng cộng sản Trung Quốc ngay từ khi 17 tuổi. Trung Hoa lục địa hoàn toàn giải phóng, anh được cử đi học một lớp huấn luyện công an và chuyển hẳn sang ngành này. Học xong anh được điều về Quảng Châu, địa đầu của nhiều ngả thông thương giữa Trung Quốc và nước ngoài, phụ trách công tác phản gián. Chính ở đây Marinet gặp Cố Thủ Chẩu. 
- Cố Thủ Chẩu người Quảng Châu? – tôi hỏi. 
- Không phải. Chính anh ta cũng chẳng biết mình quê ở đâu. Họ Cố là một tay mất gốc. Trông lù đù thế mà, anh biết không, Cố Thủ Chẩu đã lê gót khắp thế giới rồi đấy. Anh ta đã ở trong những khách sạn sang nhất của Washington, New York, Paris... 
- Cố Thủ Chẩu làm nghề gì?
- Cố Thủ Chẩu không có nghề. Anh ta là một trong những boss của Tam Giác Vàng, vựa thuốc phiện của thế giới... 
- Anh quen Cố Thủ Chẩu ở Quảng Châu?
Marinet chưa kịp trả lời thì Cố Thủ Chẩu trở về. Anh ta cười hể hả, lồm cồm leo lên “nhậm xà” cùng chúng tôi.
Cố Thủ Chẩu được coi là một người tù cải tạo tốt nhờ tính tình hiền lành và đức cần mẫn. Đã hơn một năm nay anh được Ban Giám thị cho tự giác, trông nom trạm thủy điện. Công việc này nhàn lắm. Trạm thủy điện nhỏ dùng dòng chảy chạy suốt ngày đêm. Người trông trạm chỉ phải đóng mở mấy cái cầu dao cho dòng điện lúc thì chạy máy bơm nước, lúc thì thắp sáng. Trong những ngày nước lũ thì vất vả hơn một chút, phải thức khuya dậy sớm trông nom cái tua-bin và máy phát điện, không để chúng bị trôi đi. 
- Tang lói chuện dề? - Cố Thủ Chẩu khề khà hỏi. Anh đặt lên chiếu trước mặt chúng tôi một gói trà “tự biên tự diễn”, có tới ba lạng. - Hôm lay ngộ hên lắm, vớt lờ ngoài suối tược cả kí lô cá, mới sang pên lâm sản tổi xà (đổi trà) ngon về cho các pạn... 
- Đang hỏi chuyện hai anh quen nhau thế nào? - tôi nói. 
- Quen quen cấy chi! - Cố Thủ Chẩu ngửa mặt cười hắc hắc - Malêlết ló pắt ngộ chớ. Chính cấy thằng lày lày. Pỏ tù a. Hổi cung a. Tủ cả. Malêlết pắn chếch (bắn chết) ngộ lồi lếu ngộ không có cấy hộ chếu Mỹ, phảy thế khôông?
- Bậy nào. Bắn là bắn làm sao?
- Thì pắn pằng cấy tạn (cái đạn) tùng tùng chớ pằng cấy chi. Trung Cộng cố tạn nhều nhều. Người cũng nhều nhều. Pắn không cố tếc (tiếc).
Marinet ở Quảng Châu được ít lâu thì xảy ra tam phản hay ngũ phản chi chi đó, anh kể mà tôi không nhớ. Trong những cuộc thường trực phản như vậy cán bộ cách mạng đều lần lượt bị dính, hết người này tới người khác đi tù, đi học "trường thất ngũ", một thứ trại cải tạo. 
Marinet gặp may – qua rất nhiều thứ “phản” anh không hề hấn gì. Đùng một cái, các bạn đồng đội từ thời Diên An đang đêm bí mật đến lôi anh khỏi nhà, bỏ anh lên một chiếc thuyền nhỏ, dùng ca nô hải quân kéo ra hải phận quốc tế. "Đồng chí thấy có tàu thuyền treo cờ nước ngoài thì vẫy họ xin cứu, họ dặn anh. Còn hơn chết trong trại tập trung, mà đồng chí thì chắc chắn bị bắt nếu chúng tôi không đến kịp. Thôi, vĩnh biệt Marinet!"
Lênh đênh trên biển hai tuần liền, Marinet không gọi được một chiếc tàu nước ngoài nào. Anh có nhìn thấy chúng trên đường chân trời, nhưng con thuyền nhỏ bé của anh chỉ là một chấm đen trên mặt biển mênh mông, nên người ta không thấy anh. Nắng như đổ lửa trên đại dương vô vọng. Nhờ những đồng đội thông minh, anh đã không chết khát sau khi lượng nước ngọt dự trữ cạn - trong đám lương khô anh tìm thấy cả một bao tải khoai lang, thứ khoai ngoài tinh bột còn chứa rất nhiều nước ngọt trong củ.
Thế rồi bão nổi, tung lên dìm xuống con thuyền của anh. Nó tơi tả bay lượn trên những ngọn sóng như một cọng rơm. Marinet tỉnh dậy khi chân anh đụng thềm cát của đất liền. Trong cơn u mê anh vẫn còn đủ tỉnh trí để trút bỏ bộ quần áo. Không thể để cho người ta biết anh từ đâu tới trước khi anh biết những người cứu anh là ai. Những người du kích Việt Nam tìm thấy Marinet trong trạng thái trần truồng bất tỉnh trên bờ biển. Họ đưa anh về trụ sở ủy ban xã. Marinet nhận ra chân dung ông Hồ Chí Minh.
Anh hiểu anh đang ở đâu. Biết chắc nếu khai thật anh sẽ bị chính quyền Việt Nam trả anh về Trung Quốc ngay lập tức, anh trút nốt cái quần lót trong nhà vệ sinh khi xin đi đại tiện. Nó là vật chứng duy nhất tố cáo anh là người Trung Quốc. Sau đó, có lẽ trong thời kỳ khai cung, anh đã sáng tác ra câu chuyện anh đầu độc bố vợ và bị Chúa phạt.
Anh không ngờ lại gặp Cố Thủ Chẩu trong nhà tù Việt Nam
- Tôi ngẩn người, không nói được câu nào khi thấy Cố Thủ Chẩu trước cổng trại, đang chăn mấy con trâu. 
- Ngộ cũng thế. Ngộ cứ há cấy mồm (há cái mồm). 
Cố Thủ Chẩu kể: anh đi ăn cưới em gái một người anh em kết nghĩa ở Thượng Lào. Không thể nào từ chối lời mời của người anh em thân thiết cho được. Họ uống say bí tỉ. Tỉnh dậy, Cố Thủ Chẩu thấy mình bị trói gô. Người anh em kết nghĩa bị bắt về tội làm thổ phỉ. Không biết Cố Thủ Chẩu là ai, người ta buộc anh là thổ phỉ nốt. Cho tiện. Sau đó là các nhà tù Lào, rồi nhà tù Việt Nam
- Tôi dặn Cố Thủ Chẩu chớ nói với công an Việt Nam tôi là ai. 
- Ngộ cũng pảo ló thế. - Cố Thủ Chẩu nói - Côông an Vệt Lam ló pết mềnh ở Tam Dác Vàng thì lôi thôi lắm à, rách vệệc nhều nhều.
Tôi hỏi Marinet:
- Công an Việt Nam hoàn toàn không biết tí gì về anh?
- Không. Nếu họ biết tôi đã không còn ngồi đây nói chuyện với anh. 
- Và anh dám tin tôi?
Marinet nhún vai. 
- Tại sao tôi lại không tin?
- Cảm ơn anh đã tin. 
- Tôi phải cảm ơn Chúa đã cho tôi được gặp anh để mà tin. 
Marinet ngước mắt nhìn lên cái thập giá và tôi hiểu: người cộng sản Marinet bây giờ tin thật có Chúa Trời. 
- Vì sao anh muốn kể cho tôi nghe cuộc đời anh?
Trên mặt Marinet thoảng qua một nụ cười cay đắng. 
- Bởi vì tôi biết tôi không còn sống lâu nữa. Tôi muốn kể cho anh nghe về cuộc đời tôi để rồi một lúc nào đó anh kể lại cho người khác. 
- Anh nghĩ rằng tôi còn cơ hội để kể lại sao?
Tới năm thứ tám của đời tù tôi gần như không tin mình sẽ còn sống cho tới ngày trở về. Thời hạn ba năm cho một lệnh tập trung cải tạo là thời hạn hình thức, nó chẳng được ai tính đến, trừ thói quen của guồng máy quan liêu, đến ngày thì cho đánh máy thêm một lệnh mới, kéo dài thêm cái lệnh cũ. Tôi là tên tù “xử lý nội bộ”, tức là tên vừa-tù-vừa-không-phải-tù, số phận tôi là do Đảng quyết định, nếu tin vào lời người đứng đầu Ban bảo vệ Đảng. Mặt khác tôi lại là tên tù tập trung cải tạo, có hạn ba năm một, nếu tin lời phổ biến của tên đại úy công an đẹp trai nói cho tôi và Phùng Mỹ. Tất cả cái mớ bòng bong những lời bịp bợm cố tình hoặc dối trá hồn nhiên ấy chẳng có gì đáng tin,
- Tại sao lại không thể nghĩ như thế? - Marinet phản bác - Anh còn trẻ mà.
 - Chúng ta đều còn trẻ. Nói cho đúng hơn, chúng ta đang già đi ở đây... 
- Nhưng anh sẽ còn sống. 
- Anh cũng vậy. 
- Không, tôi không sống đến ngày ra khỏi đây đâu, tôi biết. Anh xem này. 
Marinet lê ra gần cửa sổ, húng hắng ho rồi khạc vào một tờ giấy. Anh vẫy tôi lại gần. Trên tờ giấy, lẫn trong đờm là những tia máu kéo dài. Anh gập tờ giấy vứt ra ngoài cửa sổ. 
- Anh bị lao?
- Rõ ràng là thế. 
- Cần phải chữa. 
Nghe tôi nói Cố Thủ Chẩu kêu lên bằng một thổ ngữ Trung Quốc lạ tai, nhưng tôi hiểu - anh ta chửi thề. Marinet lườm bạn:
- Này, đừng nói bậy nhá!
- Chỡ, chỡ cấy... tỉu na má! Khám lồi, khám nhều nhều lồi, thằng ê sĩ cho mấy vên thốc ho lồi pảo ti về, ti về. 
Marinet cười hiền lành:
- Nhà tù chứ có phải an dưỡng đường đâu. Nơi để chết chứ không phải nơi để sống...
Anh chàng Triều Tiên họ Kim mà tôi nhắc tới ở trên chắc đã chết. Tôi vẫn quan tâm tới anh ta, nhưng không nghe ai nói tới một người Triều Tiên ở trại nào nữa, mặc dầu ở Phong Quang có đủ mặt tù từ các trại khác tới. 
Kim đến Tân Lập trong một chuyến tù từ Hà Nội. Những người tù mới chỉ trỏ anh ta cho chúng tôi thấy, khoe với chúng tôi của lạ trong đám họ. Anh chàng Triều Tiên đứng ngẩn ngơ một mình, không biết nói chuyện với ai. Tôi “nỉ hảo” với anh ta bằng tiếng Trung Quốc rồi hỏi có phải anh ta là người Triều Tiên không?
- Tuây! 
Tôi hiểu. Nhưng vốn liếng tiếng Trung Quốc của tôi đến đấy là hết. May, Kim võ vẽ biết tiếng Nga. Tôi hỏi vì sao anh bị bắt. 
- Tôi không hiểu. - Kim nói, mặt ngây độn - Tôi không hiểu gì cả. Tại sao người ta lại bắt tôi? Tôi là sinh viên Triều Tiên học ở Bắc Kinh. Tôi yêu Việt Nam. Tôi tình nguyện đi kháng Mỹ viện Việt, chẳng ai nhận tôi cả. Tôi mới đáp tàu hỏa xuống phía Nam, ở đó chắc chắn có đường qua Việt Nam. Tới Ping Seng (Bằng Tường), tôi thấy hàng dãy xe tải chở những ống lớn chờ qua biên giới. Mới chui vào một cái ống, quả nhiên sang được. Đó là những ống dẫn dầu viện trợ cho Việt Nam. Đến Bắc Giang, tôi chui ra. Tôi đi tìm chính quyền Việt Nam xin chiến đấu chống Mỹ thì bị bắt...
- Người ta không tin?
- Họ chẳng nói gì hết. Cho ăn, cho uống. Bảo sẽ kiểm tra việc này. Họ hỏi sứ quán nước tôi tại Hà Nội... 
- Sứ quán trả lời ra sao?
- Qua lời anh phiên dịch thì hình như sứ quán nói: ở Triều Tiên không có những công dân vô kỷ luật, tùy các đồng chí Việt Nam xử lý. Thế là tôi bị tù. 
- Anh phản đối chứ?
- Tôi phản đối. Họ bảo: hãy yên tâm, cứ ở tạm đây đã để người ta còn điều tra thêm. 
Kim thở dài. 
Không hiểu sao lúc ấy trong tôi lại nảy ra một ý nghĩ đùa cợt, bây giờ nghĩ lại thấy thật là ác. 
- Anh Kim à, - tôi nói - tôi nghĩ anh bị tình nghi về một tội khác... Mà người ta không nói ra với anh. 
- Tội gì? Tôi đã khai thực với họ: tôi chỉ muốn tham gia chống Mỹ cùng với nhân dân Việt Nam
Tôi làm bộ suy nghĩ một lát. 
- Có thể, người ta nghi anh là gián điệp. 
- Bozhe moy (Lạy Chúa tôi)! Tại sao người ta có thể nghĩ bậy thế được! Tôi mà làm gián điệp cho Mỹ sao?
- Chắc anh biết một trong những thế mạnh của nền xuất khẩu Triều Tiên là nhân sâm, jinseng... 
- Đúng!
- Việt Nam cũng có một thứ jinseng. – tôi hạ giọng, thì thầm - Chỉ có nó mới cạnh tranh được với jinseng Triều Tiên, và nhà nước Việt Nam rất bảo vệ bí mật ginseng của mình... 
- Chà!
- Có phải jinseng Triều Tiên to chừng này không? - tôi chìa ngón tay cái - Ít có củ to hơn. 
- Phải. Một củ và hai hoặc ba chẽ. 
- Anh chờ một lát sẽ thấy jinseng Việt Nam lớn đến thế nào!
Khi những đội nông nghiệp kìn kìn gánh sắn thu hoạch về cho nhà bếp thì Kim trợn tròn mắt, kêu lên mấy thán từ bằng tiếng Triều Tiên mà tôi không hiểu. 
Tối hôm đó, tôi tưởng anh chàng Triều Tiên sau khi đã được đứng lẫn với tù Việt Nam thì sẽ được đưa vào một toán số lẻ nào đó, nhưng không phải. Anh ta bị biệt giam trong một xà lim kỷ luật. Ban đêm tôi nghe tiếng Kim đập phá, la hét cho tới tận sáng. Mấy ngày kế tiếp cũng vậy. Rồi khu biệt giam im lặng hoàn toàn - anh ta đã được đưa đi nơi khác, hoặc đã chết.
Marinet nói:
- Anh hứa sẽ viết về cuộc đời tôi chứ?
- Nếu tôi còn sống. 
Marinet đưa tay ra, buộc tôi phải ký kết giao ước vừa thỏa thuận với nhau bằng cái bắt tay chặt. 
- Chủ nghĩa lãng mạn giết chết con người chẳng kém gì dịch hạch. - Marinet trầm ngâm - Anh thử nghĩ mà xem: có biết bao nhiêu người đã thành tâm đi theo chủ nghĩa cộng sản và trở thành nạn nhân của nó?
Tôi nghĩ tới Kim. Trường hợp của Marinet, của tôi, còn phải lý giải dài dài, nhưng trường hợp của Kim thật rõ ràng.
Chủ nghĩa lãng mạn không phải chỉ có mặt trong những bi kịch có dính líu tới chủ nghĩa cộng sản. Một tù nhân chính trị mà tôi gặp ở Phong Quang còn làm cho tôi sửng sốt hơn bởi lòng yêu nước kỳ lạ trong anh ta. Là một thanh niên nông dân, trình độ học vấn chỉ khoảng lớp bốn lớp năm, Phong rơi vào tù (cũng không có án xử) do những bức thư gửi cho Trung ương Đảng, trong đó anh ta lên án các bậc chèo lái quốc gia mời quân Trung Quốc vào Việt Nam là "cõng rắn cắn gà nhà". Để bàn về chuyện đúng sai trong việc này còn phải mất nhiều giấy mực, nhưng điều không phải bàn là lòng yêu nước trong anh ta. 
Phong không có chân trong bất kỳ đảng phái "phản động" nào, cũng không giáo điều hoặc xét lại - anh ta chỉ có trần trụi một lòng yêu nước chẳng cần biết đến đúng sai. 
Lòng yêu nước này có thể gọi là cực đoan hay mù quáng là tùy ở mỗi người, nhưng nó gợi lên trong tôi sự kính trọng. Mà không phải chỉ trong tôi.
Một hôm trung úy Bưởi mời tôi tới phòng giáo dục rồi đưa cho tôi một tập hồ sơ. 
- Anh đọc đi. 
Đó là những bức thư Phong gửi Trung ương Đảng. Không phải những bức thư đã đưa anh ta vào tù, mà những bức thư kế tiếp, vừa mới viết, những bức thư nằm trong tiêu chuẩn hiếm hoi mà người tù được phép gửi ra ngoài. "Tôi kêu gọi các người hãy tỉnh lại, đừng mơ hồ với mưu toan bành trướng của Trung Quốc. - một bức thư viết - Tham vọng mở mang bờ cõi của họ tổ tiên ta đã biết từ lâu. Nếu con cháu không nghe lời để chúng xâm lấn đất đai tổ tiên một lần nữa thì tội ấy ngàn đời không rửa sạch... " Trong một bức thư khác Phong dọa Trung ương Đảng rằng lịch sử sẽ không tha thứ cho họ, nếu như họ ngoan cố kết liên với kẻ thù truyền kiếp để mang họa cho đất nước.
- Anh này thậm chí nhịn đói chứ không ăn cơm nấu bằng gạo Trung Quốc viện trợ. 
- Tôi cũng có nghe chuyện này. Những ngày trại ăn gạo Trung Quốc anh ta ăn sắn mót trên nương. 
Bưởi lắc đầu buồn bã. 
- Anh muốn nghe ý kiến gì ở tôi? - tôi hỏi Bưởi. 
- Tôi muốn hỏi anh: nếu ở địa vị tôi anh sẽ xử trí với những bức thư này như thế nào?
- Tôi có thể không đồng ý cách nhìn bất biến của anh ta với Trung Quốc cũng như với bất cứ kẻ thù cũ nào. - tôi nói chậm, tìm những lời lẽ không thể bắt bẻ được - Lịch sử là lịch sử. Nếu dân tộc Chàm nhìn người Kinh hiện nay như kẻ thù thì sẽ ra sao ? Tôi không nói anh ta sai trong cách nhìn nhận cụ thể đối với Trung Quốc hiện tại. Hình như cách nhìn Trung Quốc của Đảng năm nay, 1974, cũng đã thay đổi so với năm 1964...
Trung thành với nghề nghiệp, Bưởi nín lặng. Qua báo Nhân dân là tờ báo duy nhất tù được đọc, tôi nhận thấy giọng tờ báo không còn nồng nàn đối với Trung Quốc như hồi ban lãnh đạo Đảng dưới sự lãnh đạo của ông bẻ ghi Lê Duẩn còn hào hứng thấy "trung tâm cách mạng đã chuyển về phương Đông". 
- Điều rõ ràng là những bức thư này được viết ra dưới sự thôi thúc của lòng yêu nước, - tôi kết luận - còn yêu theo cách nào là chuyện khác, tôi không bàn đến. 
- Nếu những bức thư này được đính thêm vào hồ sơ anh ta, chắc chắn anh ta sẽ còn ở tù còn lâu... - Bưởi nói - Theo anh, ta nên làm gì với những bức thư này?
- Tôi nghĩ chúng chẳng có ích gì, tức là tôi muốn nói, chẳng thay đổi được gì trong đường lối của Đảng nếu nó được gửi tới đúng địa chỉ... 
- Chính vì vậy mà tôi đã không gửi. 
- Anh nên đốt đi. - tôi khuyên Bưởi - Đó có lẽ là cách tốt nhất, nếu ta còn biết kính trọng lòng yêu nước của một con người. 
Bưởi đưa cho tôi cái bật lửa. 
- Anh đốt hộ tôi.
Tôi ra đầu hồi châm lửa vào mấy bức thư. Chúng cháy cong queo, tàn bay lả tả trong gió. Tôi hiểu vì sao Bưởi không tự tay đốt những bức thư. Chẳng phải Bưởi sợ cái gì. Chẳng qua anh ta muốn tôi thấy anh ta tin tôi tới mức nào.
Marinet mỗi ngày một yếu. Tôi không có cách nào cứu anh. Tôi viết một bức thư về cho vợ tôi, bảo vợ tôi tới bác sĩ Phan Thanh Hoài nhờ anh kiếm thuốc chữa lao gửi lên cho tôi. Tôi hơi ngần ngại khi viết bức thư này, sợ gia đình tôi tưởng tôi bị lao. Nhưng bức thư không có hồi âm. Người đi tiếp tế mà Cố Thủ Chẩu nhờ chuyển thư đã không chuyển. 
Marinet bảo tôi:
- Đừng lo lắng cho tôi, đồng chí! Tôi đã cố gắng vật lộn với cái bệnh khốn kiếp này, nhưng xem ra không ăn thua. Tôi đã nuốt cả những con thạch thùng sống theo lời khuyên của những người tù già, họ nói đó là bài thuốc dân gian cổ truyền. Tôi đã ăn những con giun, nghe nói chúng làm tăng sức đề kháng. Có người còn bảo tôi nướng những con gì giống con cóc nhưng bụng rất to mà da nhẵn thín, tôi ăn và nôn mửa gần chết... Tất cả đều vô ích. Tốt nhất là thỉnh thoảng chúng ta kiếm cách gặp nhau để tôi có thể kể thêm cho đồng chí về cuộc đời tôi và về số phận những người cộng sản Trung Quốc. Biết đâu đấy, đồng chí lại chẳng cho người đọc biết thêm một chút gì bên trong bức màn sắt của Trung Quốc bao la đầy bi kịch...
Tôi đã không viết gì hết sau khi ra khỏi nhà tù. Tôi sợ. Và cũng vì tôi không thích sự nửa vời. Nếu viết thì tôi phải viết tất cả những gì tôi nghĩ. Những người Trung Quốc dũng cảm đã làm việc đó hơn hẳn người Việt Nam. Thế giới được biết những việc xảy ra ở Trung Quốc nhiều hơn hẳn những gì xảy ra ở Việt Nam. Việt Nam, xét cho cùng, là một quốc gia nhỏ bé. Người ta không biết đến cũng phải.
(trích hồi ký Đêm Giữa Ban Ngày, 1997)

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

5044. Màu đỏ Artek

5485. Vì sao nước Đức hùng mạnh? (Kỳ 1)

6272. Kịch tính vụ kit Việt Á ngày càng cao.