5047. Người hùng biết sợ
Người hùng biết sợ
Truyện ngắn của PHẠM DUY NGHĨA
Tôi lớn lên cùng Vũ ở
nông thôn miền núi. Từ nhỏ Vũ đã là đứa trẻ khác lạ. Người nhỏ và sắt lại như
một thỏi chì. Đôi mắt màu nâu hoang dại có viền sắc lạnh như mắt chim rừng. Mỗi
ngày mở miệng không quá ba lần, lúc nào cũng lầm lũi.
Hơn mười tuổi Vũ đã nổi
danh là người không biết sợ một thứ gì trên đời. Trèo lên ngọn cổ thụ cao ngất
bắt tắc kè. Bám vào vách đá dựng đứng lấy tổ chim. Lùng sục trong hang hốc tăm
tối tìm dơi. Giữa mùa đông buốt giá từ mỏm núi nhảy xuống hồ bơi ngang bơi dọc.
Chết thì thôi. Đời đói nghèo, có gì vui thú lắm đâu mà phải tiếc.
Xóm tôi ở tựa lưng vào
đồi, nhìn ra một cánh đồng. Đi hết đồng thì tới hồ. Đi dọc theo hồ tới chân gò
sẽ gặp một bãi tha ma. Người không biết sợ cái gì thì ít nhất cũng sợ ma, nghĩ
thế nên vào một tối mùa thu, một kẻ trong chúng tôi đã thách Vũ đi một mình đến
bãi tha ma đó. Không nói nửa lời, Vũ lặng lẽ đi. Ma chẳng qua là người sống
được chuyển biên chế vào một cõi khác chứ có gì đáng sợ đâu, chuyện vặt.
Chúng tôi ngồi chờ ở bãi
cỏ ven đồi. Vũ đi dưới trăng mờ cho tới khi khuất hẳn, lâu sau mới trở lại, quần
găm đầy cỏ may. Cả lũ chưa kịp vỗ tay thì Tuân buông một câu ráo hoảnh:
– Có ai đi theo mày đến
tận nơi đâu. Chả có bằng chứng nào là mày đã đến đó cả.
Tuân là tay giỏi lí sự
và hay lên mặt đàn anh nhất trong đám chúng tôi.
Vũ lại lầm lụi đi. Tôi
thấy thương Vũ. Rồi bóng Vũ hiện ra ở cuối đồng, vác theo một cái gì đó vàng
vàng. Về đến nơi, Vũ ném xuống cỏ trước mặt chúng tôi một vòng hoa tang héo
quắt.
– Bằng chứng đấy.
Chúng tôi thất kinh. Đó
là vòng hoa cúc trên mộ ông Đảm, chết vì chó dại cắn, mới chôn được vài ngày.
Chưa hết, Vũ còn móc ra từ túi quần một nắm đỏ hoe, vứt xuống đất. Thì ra là
những chân hương.
Sau kì tích ấy, Vũ được
thưởng huân chương chiến công. Huân chương là một cục đá đen sì từ trên trời
rơi xuống bãi cỏ ven hồ, trong lúc chăn thả trâu bò chúng tôi nhặt được. Người
già trong xóm giải thích đó là mảnh thiên thạch vỡ ra từ một hành tinh nào đó
gần trái đất. Bọn trẻ chúng tôi kính cẩn gìn giữ, coi đó là một vật thiêng.
Việc Vũ được thưởng huân
chương của trời không làm ai ghen tị. Vũ xứng đáng, tất nhiên, nhưng chúng tôi
tin nhất định cậu ta sẽ bị hồn ma ông Đảm về bóp chết. Chẳng phải đâu xa, chính
thằng Tích em họ tôi khi thả trâu ở ven đồi đã đái vào một mô đất mà không biết
đó là mộ, về đến nhà con chim ở háng đột ngột sưng vù. Không đái được, cu cậu
phát rồ. Mẹ Tích phải nhờ thầy ra ngôi mộ đó làm lễ một ngày mới khỏi.
Nhưng đến hết mùa thu,
khi rặng bạch đàn ven cánh đồng có những chiếc lá đã chuyển màu từ xanh sang đỏ
tía, khi những cụm khói xanh lơ đã vẩn lên trên dãy đồi sau xóm báo hiệu mùa
đốt nương, Vũ ta vẫn nhơn nhơn sống như thường. Đúng là ma bắt tùy người. Đến
chết Vũ còn chẳng coi là gì, thì ma nào thèm bắt Vũ.
Một hôm, Tuân nói:
– Ra bãi tha ma một mình
kể ra cũng đáng nể, nhưng tao chưa phục lắm. Nửa đêm lên đỉnh đồi cọ mới kinh.
Anh ta lí luận:
– Vì bãi tha ma có nhiều
mồ mả, tạo cảm giác đông vui. Đến một ngôi mộ ở nơi khuất nẻo thì ghê hơn, đó
là quy luật tâm lí.
Chúng tôi thừa nhận Tuân
nói đúng. Rừng cọ ở trên ngọn đồi phía sau xóm, vầu nứa mọc rậm rì, riêng tại
đỉnh đồi có một khoảng đất trống quạnh hiu giữa vài gốc cọ thưa thớt. Mùa đông
cũng như mùa hè, không hiểu vì sao bất cứ ai đi qua đó đều thấy lạnh và rợn
người lên. Nghe nói một cô giao liên được chôn ở đó thời chiến tranh, chẳng
biết hư thực thế nào, nhưng mỗi khi có việc qua đồi ai cũng đi vào những bãi
rậm xung quanh mà tránh đi qua khoảng đất kì lạ đó.
Cho một tỉ đồng cũng
không dám lên đỉnh đồi cọ vào ban đêm, bọn trẻ chúng tôi bảo nhau. Một tỉ là
bao nhiêu, không hình dung nổi, ở cái thời bao cấp đói nghèo ấy, chỉ biết là
nhiều lắm. Vậy mà không ai dám lên. Lên đó, không bị cô giao liên bóp chết tươi
thì cũng sợ đến vỡ tim mà chết.
Thế mà Vũ dám nhận lời
thách đố.
Ấy là một đêm mùa đông,
trời rất tối. Đúng mười hai giờ kém năm phút, Vũ rời nhà lên rừng cọ. Theo thoả
thuận thì Vũ mang theo đèn pin nhưng không được bật đèn. Chúng tôi, choai choai
lớn bé hơn chục thằng, nhấp nhổm như một bầy cóc ngoé ngồi đợi ở bên kia đồi,
cạnh con đường dẫn về xóm. Nhìn lên quả đồi âm u bí hiểm mà kinh. Gần một giờ
sáng, có ánh đèn pin xanh lét loé lên hai lần trên đỉnh đồi cọ tối đen, đó là
tín hiệu đã đến nơi của Vũ. Khi Vũ băng rừng xuống tới chân đồi, chúng tôi sờ nắn
quanh mình cậu ta và phát hoảng. Người Vũ lạnh như một thây ma.
Khi được hỏi có gì lạ ở
trên đó không, Vũ lắc đầu. Hình như cậu ta giấu chúng tôi điều gì. Một tháng
sau Vũ mới kể, khi Vũ qua khoảng đất trống ấy, trong bóng tối có tiếng người
nói thều thào, nhỏ thôi nhưng nghe rõ mồn một: “Đi đâu về mà khuya thế”.
Đi đâu về mà khuya thế…
Câu nói ghê rợn ấy ám ảnh chúng tôi suốt thời thơ ấu ở một miền đồi.
Sau kì tích thứ hai này,
Vũ được cả xóm phong anh hùng. Lễ tấn phong cho Vũ cũng đơn giản, diễn ra vào
một buổi sáng mùa xuân trời đẹp, tại lối đi nhỏ bên bờ rào có những cây mận nở
đầy hoa. Hoa được rắc trắng xoá lối đi, chúng tôi ngồi thành hai hàng danh dự
dọc hai bên, và khi Vũ từ cổng vườn bước ra, đi vào giữa, tất cả đứng dậy chào.
Không khí trở nên trang trọng đến mức chỉ còn nghe thấy tiếng hoa mận rơi khẽ
trong vườn. Mặt Vũ lạnh tanh, đầu đội vành nguyệt quế kết bằng hoa mua, chéo
qua ngực là sợi thừng trạc trâu tượng trưng cho dây chiến thắng.
Cần nói thêm rằng, việc
phong tặng danh hiệu cao quý này đã được thiếu niên cả xóm họp bàn rất kĩ trước
đó, có biểu quyết và biên bản hẳn hoi. Một lần nữa, không ai ghen với Vũ.
Chính Tuân là người đứng
ra đọc quyết định trong lễ tấn phong cho Vũ. Anh ta tâm phục khẩu phục, thừa
nhận Vũ là an
***
Học xong phổ thông, hầu
hết thanh niên xóm tôi ở nhà đi cày, riêng Vũ thi đỗ vào khoa văn một trường
đại học. Cũng chẳng ai lạ. Vũ vốn là thằng tài tử, cái giống lầm lì cả ngày
không móc ra khỏi miệng được một tiếng ấy đôi khi lại đột xuất thông minh. Thực
ra Vũ học toán khá hơn học văn, nhưng bố Vũ khuyên: “Xưa nay các ông to ở nước
mình ít nhiều đều dính dáng đến thơ phú văn chương. Mày nên học văn để sau này
dễ được làm quan. Chỉ có bọn ngu mới ghét văn, chứ ở nước ta học văn bao giờ
cũng thức thời”.
Vũ nghe bố, chọn ngành
văn. Còn tôi, nhờ quay cóp, cũng đỗ vào trường trung cấp ở một tỉnh trung du,
học ngành giao thông vận tải.
Một ngày mùa xuân, tôi
đến thăm Vũ.
Ngôi trường của Vũ nằm ở
một vùng mây nước đẹp mê hồn. Một dải hồ xanh bạc mênh mông uốn quanh dãy đồi
bạch đàn quanh năm không ngừng gió. Kề ngay sát trường là đồi sở, thứ cây trồng
để lấy tinh dầu, cứ đến mùa hè là bung ra ngạt ngào hoa trắng. Bốn mùa không
khí cứ như mơ.
Tôi đến cổng kí túc xá,
hỏi thăm Vũ. À, Vũ quái nhân, ai cũng biết. Một sinh viên nam nói. Vì sao lại
gọi là quái nhân? Bỏ học. Đánh nhau. Đàn hát cả đêm. Sinh nhật đọc diễn văn, mở
quốc ca, bắt tất cả người dự đứng dậy chào cờ. Uống rượu xong nhai nát cả chén
thủy tinh, nhảy từ ban công tầng ba xuống đất. Còn nhiều trò khác lắm.
Thì ra là vậy. Trong lúc
chờ Vũ đang học ở trên lớp, tôi lê la quanh mấy hàng quán dọc kí túc xá, ăn
xoài xanh chấm muối với mấy nàng sinh viên đang nghỉ học để ôn thi. Mấy nàng
này có vẻ lười học, chỉ thích xuống đường ăn vặt, người mặc quần ngủ nổi rõ
xilip, kẻ thì váy xống thướt tha. Nghe tôi tự xưng là bạn của Vũ khoa văn, một
nàng nhìn tôi chằm chằm, nàng kia đánh rơi miếng xoài trên tay xuống đất. Anh
là bạn của anh Vũ thật á? Eo ôi ngưỡng mộ quá. Anh ấy là người hùng sinh viên,
niềm tự hào của khoa văn trường em đấy. Con gái chúng em chết anh ấy như rệp.
Anh ấy mà chơi đàn, thôi cứ gọi là mê li.
Khi Vũ ở giảng đường về,
tôi không còn nhận ra. Quả là danh bất hư truyền. Ngoài khoác áo da đen sì,
trong mặc áo thun đen tuyền có in cái đầu rực lửa của ca sĩ Michael Jackson,
lại kiếm đâu ra chiếc mũ phớt màu lông chuột đội nghênh ngang. Mấy thứ đồ ấy
cũng rẻ tiền thôi nhưng trông Vũ lẫm liệt như một cao bồi miền viễn Tây thực sự.
Vũ bắt tay tôi, bộ dạng
vẫn lạnh lùng như ngày ở nhà.
Rồi dẫn tôi vào kí túc
xá. Phòng Vũ có ban thờ, treo sợi dây đai vàng xỉn, không biết là đai gì. Trên
tường nhằng nhịt những cảnh đấm đá kinh người, những thế võ quái quỷ của môn
phái nào đó được vẽ giống như thật bằng than đen. Ngoài ra còn chi chít những
vệt nâu thâm mà tôi đoán là máu khô, bởi vừa bước vào phòng một mùi tanh tanh
đã xộc ngay vào mũi.
***
Tôi ở chơi tại đó mấy
ngày nghỉ cuối tuần. Tiếng là đến thăm nhưng chẳng mấy lúc được gần Vũ. Cậu ta
lang bạt suốt ngày, đêm về lại vắt vẻo ở ban công tầng ba giữa đám bạn bè, đàn
hát, uống rượu đến khuya. Hát rồi uống, uống rồi hát, rồi xoang xoảng đập chai.
Say thì nôn, nôn xong lại uống, đêm này qua đêm khác những bãi nôn mốc trắng và
đóng vảy ở chân tường. Người hôi hám nhưng chất giọng của Vũ thật thiên thần.
Con gái tất cả các phòng đổ ra ngoài ban công như gà thò cổ ra khỏi chuồng nghe
Vũ hát. Nửa đêm mất điện, các nàng lại kêu ré lên kinh hãi khi Vũ dùng lược kẹp
vào mảnh giấy thổi điệu kèn y hệt đám ma.
Có đêm Vũ chốt cửa
phòng, và thay vì tiếng đàn, tôi ngửi thấy mùi khói hương phảng phất cùng tiếng
khấn văng vẳng bên trong. Con cầu xin Phật tổ. Con cầu xin sư tổ. Con cầu xin
bảy vị sư phụ của đồ nhi. Bá thiên đạo trưởng. Hoàng thiên đạo trưởng. Thanh
trúc đạo trưởng. Bá hạnh ngũ đục. Ngư câu lão ông. Nga mi lão tổ… Liền
đó là tiếng phun phì phì như của rắn hổ mang, tiếng da thịt quật xuống nền
thình thịch và tiếng đá vào tường đánh rầm. Khi cánh cửa bật mở, tôi thấy trên
tường in năm vệt máu đỏ loè mang hình năm đầu ngón chân của Vũ.
Trưa thứ bảy, đang ngủ,
tôi bị đánh thức bởi tiếng ồn ào. Trai tráng từ đâu kéo đến đông nghịt trước kí
túc xá, lớn tiếng đòi sinh viên nam khoa văn ra nộp mạng. Tình thế căng thẳng
đến mức cổng kí túc xá phải khoá lại. Hình như có mâu thuẫn giữa sinh viên với
bọn thanh niên đua đòi ngoài thị xã. Hình như chúng đã đánh một nhân viên bảo
vệ vỡ đầu.
Thầy chủ nhiệm khoa
xuống đường. Thầy hiệu trưởng xuống đường. Đám đông không chịu giải tán. Nghe
nói nhà trường đã gọi công an. Một sinh viên nữ quá khích ném xu chiêng quần
lót từ trên tầng xuống đám đông. Không khí hỗn loạn không thể tả.
Các tầng xôn xao gọi
nhau. Vũ quái nhân đâu? Vũ quái nhân đâu? Vũ mất tích từ sáng. Có người trông
thấy Vũ say rượu ngã chúi vào bờ rào, nhếch nhác thảm hại vô cùng. Có người nói
Vũ bị dân trong làng chặn đường đánh hộc máu mồm. Lại nghe Vũ bị bọn ngoài thị
xã lừa, cho uống bia pha thuốc ngủ và xẻo mất dương vật rồi, không trở về
trường được nữa.
Tôi thực sự hoang mang.
Bỗng tiếng ồn ào lắng
xuống. Ai đó hét lên: “Duy Vũ Quái Nhân!”
Thì kia, Vũ đang đứng
trên nóc phòng bảo vệ ở cổng kí túc xá. Áo choàng đen kịt, áo thun màu đỏ tươi
nổi bật dòng chữ trắng UNBEATABLE – bất khả chiến bại. Mũ phớt kiêu bạc, tay
chống cây gậy dài. Như khối tượng đồng mang quyền trượng trong tay, dưới trời
lồng lộng xanh, Vũ nhìn xuống đám đông, im lặng.
Đám khiêu chiến ngước
nhìn Vũ. Có tiếng cười cợt, nhưng phần nhiều là ánh mắt nể nang. Một số kẻ bắt
đầu rời khỏi đám đông. Mười phút sau, vụ náo loạn chấm dứt.
Lần đầu tiên, tôi thấy
được quyền uy của Vũ.
“Thực ra võ công của Vũ
không phải nhất trường. Học lỏm từ mỗi môn phái một ít, sức Vũ cùng lắm địch
nổi chục người, nhưng khí phách oai dũng, sự can đảm tuyệt vời cùng sự hào hiệp
quảng giao khiến bất cứ ai nghe cái tên Duy Vũ Quái Nhân đều e nể”. Anh bạn
cùng tầng với Vũ giải thích với tôi như vậy. “Cái nhìn xuống đối phương của Vũ
hôm nay, chắc hẳn sinh viên giới sẽ còn tốn thêm nhiều nước bọt để bình luận.
Trong chiến đấu, cái nhìn ấy có thể đẩy lui cả một sư đoàn”.
Một cô nàng viết vào
nhật kí: Hình ảnh anh Vũ
đứng trên nóc nhà hôm nay đã tạc vào lịch sử sinh viên như một biểu tượng lộng
lẫy và kì diệu nhất. Nó khiến cho ước mơ cháy bỏng của đời mình ngày càng hiện
hình đau đớn, không gì khác, là được hiến thân cho anh ấy dù chỉ một lần.
Chiều chủ nhật lại xảy
ra sự kiện lớn. Không biết từ đâu, có tin báo về rằng có người bị giết trong
chiếc lô cốt bỏ hoang trên dãy đồi bạch đàn. Thầy trò trường Vũ lũ lượt kéo
nhau leo dốc ngược đồi. Tôi cũng đi. Mấy nàng sinh viên thướt tha váy xống ăn
xoài chấm muối hôm nọ cũng đi. Nghe nói lô cốt này có từ thời chiến, nay trở
thành lâu đài lí tưởng của bầy chuột, nơi tị nạn của trộm cắp và điểm hẹn hấp
dẫn của những đôi sinh viên yêu nhau thắm thiết không có tiền đi nhà nghỉ làm
tình.
Tôi theo mấy nàng váy
mỏng lên tới đỉnh đồi đúng lúc Vũ từ lô cốt bước ra, tay nâng một thi thể phụ
nữ không đầu. Cái thây trắng nuột, không có áo quần. Trên cao, ráng chiều rực
rỡ khiến bầu trời như được dát vàng, và chiếc áo đẫm máu của Vũ cứ ngời lên như
chiến bào đỏ thắm. Các sinh viên nữ ngất ngây nhìn Vũ như nhìn trang hảo hán
trong một cảnh phim.
Nhiều người thắc mắc,
cán bộ nhân viên của trường chết hết rồi sao mà để cho một mình Vũ chui vào lô
cốt tìm xác nạn nhân. Thì ra mấy tay bảo vệ chần chừ, cố tình chậm lại phía sau
để Vũ vượt lên trước. Có tay thầm thì với Vũ, mày tài ba dũng cảm nhất nước,
mày xông vào trước, nếu mày còn sống tối nay chúng tao có rượu đãi mày.
Vũ nâng xác chết như vị
hoàng tử nâng một con thiên nga trắng muốt xuống đồi. Đi tới đâu, ruồi nhặng
cùng các nàng sinh viên quấn quýt bám theo đến đấy. Sinh viên từ trường nô nức
kéo ra chân đồi đón Vũ, như đón một người anh hùng.
Đến hết ngày hôm ấy, khi
đài truyền thanh trường đại học thông báo “lực lượng chức năng của trường đã
nhanh chóng tìm được xác chết trong lô cốt”, đầu của nạn nhân đã được Vũ và các
bạn tìm thấy ở bờ cỏ ven hồ, cách lô cốt một dải đồi. Lắp đầu vào cái xác trần
truồng, người chết hiện nguyên hình là Liên – sinh viên năm cuối của khoa văn,
nổi tiếng xinh đẹp, lăng nhăng, từng làm tan nát trái tim nhiều ông thầy và bạn
trai cùng khoá.
***
Tin Vũ bị đuổi học đến
với tôi vào một ngày đầu mùa hè. Thực ra tội của Vũ chẳng có gì, chỉ là tham
gia vào một vụ trói người, xát xà phòng lên đầu nạn nhân và bật quạt điện cho
bong bóng xà phòng bay vào mắt. Có thế thôi mà trở thành vụ án gây chấn động trường
đại học. Tôi vội bắt xe về trường Vũ xem sự thể thế nào.
– Thoát rồi – Vũ nói –
Chỉ bị cảnh cáo thôi.
Thì ra Vũ thoát nạn là
nhờ tập thơ.
Tập thơ ấy tôi đã tình
cờ được xem trong lần đầu đến thăm Vũ. Đó là một cuốn sổ ghi khoảng dăm chục
bài thơ viết tay của Vũ, từ đầu đến cuối rặt một giọng nổi loạn bất cần. Loại
thơ điên, như cỏ hoang hoa dại mọc tự nhiên, không bao giờ ngoi được lên mặt báo.
Bản gốc bẩn lem nhem, đầy vết vân tay, vết ố của rượu, nước mắt sinh viên nữ và
hình như cả nước bọt của các nàng bắn vào. Về sau nó được sao chép thành nhiều
bản, gọi là Quái Nhân thi
tập, lưu truyền trong các khoá sinh viên. Khi Vũ sắp bị đưa ra hội đồng
kỉ luật ở khoa văn, thầy chủ nhiệm khoa, mới tu nghiệp ở Nga về, nghe nói Vũ là
sinh viên lập dị khác người đã mượn ở đâu về một bản thơ Quái Nhân để “nghiên
cứu” Vũ.
Đọc xong bài đầu, thầy
đập tay đánh rầm làm cốc chén nhảy lên khỏi mặt bàn:
– Thằng này khá.
Tôi muốn người ta đập
chết tôi
chặt chân chặt cẳng vứt
lên đồi
xương làm mắc áo da làm
trống
rồi ném đầu tôi cho chó
xơi.
Tôi muốn người ta chọc
tiết tôi
máu đem hoà lẫn với
sương trời
sớm ngày đem tưới vô
chậu cảnh
nuôi khóm hồng nhung
thêm thắm tươi.
Rồi một ngày kia ở một
nơi
chàng mang hoa đẹp đến
cho người
môi nàng chúm chím duyên
nồng thắm
hôn đoá hồng thơm đỏ
tuyệt vời.
Thịt chế thành phân đem
bón chơi
mênh mông khoai lúa trổ
xanh bời
gió ôm hương sữa chui
vào đất
nơi đó hồn tôi nhoẻn
miệng cười
– Một khí tiết đáng nể!
Một cá tính đặc sắc! Giọng điệu thì phát xít, nhưng thông điệp thì rất nhân
văn! – Thầy chạy lên căn hộ của trưởng phòng đào tạo trong khu tập thể trường
giữa đêm khuya – Thầy đọc xem, đuổi học một sinh viên như thế này thì phí quá.
Thầy trưởng phòng đào
tạo gật gù:
– Đúng, thơ có tư tưởng.
Nó muốn xả thân vì nhân loại, cộng đồng.
Thầy chủ nhiệm khoa sôi
nổi:
– Mấy chục năm trong
nghề rồi chu du xứ người, tôi nghiệm ra rằng, phàm là sinh viên, những đứa nào
hiền lành ngoan ngoãn khi ra trường chỉ thành công chức xoàng, sống cuộc đời an
phận, không làm nên trò trống gì. Những thằng ngổ ngáo cá biệt kia mới làm nên
sự nghiệp. Chắc thầy nhớ, nhà bác học Edison lừng
danh từng suýt bị đuổi học vì tội nghịch ngợm gây khói “đốt trường”. Thầy nghe
tiếp này…
Tôi đã sống những tháng
ngày bốc lửa
hiến trọn linh hồn theo
tiếng gọi muôn nơi
tim long cơ và bật máu
phun vòi
hồn man dại tiếng nhạc
rừng chát chúa.
Tôi đã sống những tháng
ngày bốc lửa
đốt cạn thân tàn trong
rượu bỏng bia suông
vui hoang sơ như thú dại
sổng chuồng
chửi quá khứ tẩm xăng
vào hiện tại
cho đến lúc hoá ma tàn
quỷ dại
gục tại đấu trường tôi
kiệt sức nằm rên
vỡ tung ra như đậu trắng
trên nền
lờm lợm máu và tanh tanh
mùi óc
tôi sẽ chết chẳng cần ai
khóc
tang lễ cử hành do bọn
kiến và giun
giữa đồng không dặt dẹo
cô hồn
làm bạn với một bụi cây
dương xỉ.
– Hay! – Thầy trưởng
phòng đào tạo kết luận – Thằng này đích thực là nghệ sĩ lãng tử giang hồ. Nó
còn có ích cho đời. Thầy phải cứu nó.
Ít ngày sau, tại hội
đồng kỉ luật của khoa văn, Vũ gần như trắng án. Tội trói người chỉ được xem như
trò nghịch, phút ngông cuồng dại dột, của một sinh viên có tật có tài.
Nhưng đến hội đồng kỉ
luật cấp trường, vụ của Vũ được xử như một phiên toà. Hôm ấy là một ngày nắng
vàng, cán bộ tổ chức dùng loa kêu gọi lớp trưởng bí thư mọi lớp mọi khoa có mặt
tại hội trường lớn. Thầy chủ nhiệm khoa văn chẳng những không bênh được Vũ, còn
bị nhà trường phê phán nặng nề. Là xét lại, hữu khuynh, là ảnh hưởng tư tưởng
tự do châu Âu, buông lỏng kỉ luật của khoa, để lũ giặc sinh viên làm loạn.
Vũ bị đình chỉ một năm
học.
Một năm ấy, Vũ lên miền
núi, đến một tỉnh rất xa. Hôm Vũ đi, tôi cũng có mặt, trời nổi gió, thổi u hoài
da diết suốt một dải đồi. Có sinh viên nữ không kìm được lòng mình, quỳ xuống
ôm chân Vũ lúc chia tay, khóc ngất bên bờ rào hoa tím.
Vũ theo một toán người
vào rừng xẻ gỗ. Sau khi đánh dập mũi gã toán trưởng quen lấy thịt đè người, Vũ
dạt về tỉnh khác, nhập vào đoàn đi đào đá đỏ. Nửa năm gặp toàn đá xỉ, một sớm
kia Vũ đào được viên hồng ngọc cỡ bạc tỉ đúng lúc xảy ra cuộc huyết chiến tranh
giành lãnh địa giữa các phe nhóm. Sợ bị cướp giết, Vũ nuốt viên ngọc vào bụng,
định chuồn về thành phố mổ bụng ra lấy ngọc. Một tên bưởng trưởng khét tiếng võ
nghệ sau khi phát hiện đã đuổi theo Vũ dưới trăng vàng dọc bờ sông, quyết thủ
tiêu bằng được Vũ trong đêm. Bị dính hai cú đấm thép tưởng chừng nát cả gan
ruột, Vũ dùng mẹo lừa hắn xuống sông đập vỡ hai đầu gối hắn rồi chạy thoát về
Hà Nội, trước khi được cả bãi đá tôn làm anh hùng.
Viên rubi trong bụng Vũ
khi được lấy ra, các chủ hiệu đá quý ở Hà Nội đều lắc đầu. Nó bị hai vết rạn,
chỉ đáng vài triệu bạc là cùng. Vũ chết lặng. Rõ ràng trước khi nuốt vào bụng,
viên ngọc còn trong suốt, đỏ tươi. Đó là điều bí hiểm không bao giờ giải thích
được trong đời Vũ.
Mãn hạn kỉ luật trở về
trường, Vũ như một người khác hẳn. Dành hết thời gian cho việc học, Vũ nổi
tiếng là sinh viên giỏi tiếng Anh nhất trường những năm ấy. Cũng nhờ quen với
việc dạy thêm ngoại ngữ mà trước khi khép lại đời sinh viên thăng trầm Vũ lại
ghi thêm một thành tích: giải nhất hội giảng sinh viên khoa ngữ văn.
Những thế hệ sinh viên
sau này chỉ còn biết đến huyền thoại về một Vũ ngang tàng hoang dã qua những
vần thơ
Tôi chỉ một chú mèo
hoang động cỡn
đánh thức đêm đen với
tiếng gào táo tợn
làm kinh hoàng bọn chuột
nhắt dở hơi
làm vui tai bầy chó mực
chán đời
hay như một que diêm đời
vứt bỏ
trong nháy mắt cháy bùng
phóng lửa
đốt trụi ngàn lau doạ lũ
ó diều
thiêu đám trăn già và
chọc tức hùm beo.
Ừ vậy đó dẫu biết mình
nông nổi
thích vui sống đâu phải
là có tội
kia thời gian không biết
đợi bao giờ…
***
Ra trường mỗi người một
nơi, công việc bộn bề, bẵng đi mấy năm tôi không gặp Vũ. Nghe nói Vũ sống không
yên ổn. Anh lao vào đấu tranh chống bất công, tham nhũng, nay tố cáo người này,
mai lật đổ người khác, làm ở cơ quan nào cũng chỉ một thời gian ngắn rồi lại bật
ra. Tình cờ đọc một tờ báo, tôi thấy có bài viết về anh, gọi anh là người hùng
chống tiêu cực. Tác giả dẫn lời tuyên bố của Vũ: “Đời tôi chỉ sợ người tốt.
Ngoài ra không biết sợ gì”.
Bài báo còn in ảnh Vũ,
đôi mắt gườm gườm như hận thù. Đôi mắt ủ đầy giông bão.
Lần lữa mãi, tôi cũng bỏ
ra một ngày về thủ đô thăm Vũ. Gia đình anh ở tại căn hộ tầng một của khu tập
thể trong một ngõ hẻm. Trong nhà đồ đạc sơ sài, trên tường treo ảnh Văn Cao, ở
dưới là cây đàn guitar cũ kĩ. Vợ Vũ gầy, nhợt nhạt như mảnh trăng non, đôi mắt
trông lúc nào cũng buồn. Hai đứa con, một gái một trai, có vẻ ngoan và cũng gầy
như mẹ.
Vợ mình bị vạ lây từ
mình nên nó chán chường, Vũ nói. Tự dưng bị đẩy ra khỏi biên chế cơ quan, hàng
ngày phải đạp xe đi làm công nhân một xí nghiệp cách nhà vài chục cây số, sức
đàn bà không chịu nổi đành bỏ về bán hàng thuốc nước bánh kẹo lặt vặt ở vỉa hè.
Đứa con gái lớn học giỏi nhưng không xin được vào trường điểm gần nhà, phải học
trường khác ở xa. Chả phải vì mình không có tiền chạy đâu, mà khi biết nó là
con mình họ đã gạt hồ sơ ngay không cần giải thích.
Tôi ăn trưa với gia đình
Vũ. Bữa ăn diễn ra trong không khí tẻ nhạt. Vũ cầm chén rượu với vẻ lóng ngóng,
lúc này tôi mới phát hiện bàn tay anh bị cụt ngón trỏ. Chúng nó dùng đá đập nát
ngón tay mình đấy – Vũ giải thích – sau khi bất ngờ tông vào xe của mình làm
mình ngã giữa đường. Chúng nó là ai? Tôi hỏi. Là chúng nó, là hai thằng đi xe
máy bịt mặt, chứ biết là ai.
Tôi ngạc nhiên, võ nghệ
đầy mình, sao để chúng đánh. Vũ nói, nó tương ớt bột vào mắt, đau lắm, chả nhìn
thấy gì.
Vợ Vũ lặng lẽ ăn, cả bữa
gần như không nói câu nào. Khi hai vợ chồng vào buồng trong, tôi nằm nghỉ ở
phòng ngoài nghe thấy tiếng họ nói chuyện. Hình như Vũ đang dính vào một vụ đấu
đá nào đó. “Chúng nó sẽ giết anh, giết em, có khi giết cả các con mình nữa. Tại
sao anh không thể sống bình thường như mọi người khác? Anh quá biết trong xã
hội này chúng nó không từ một thủ đoạn nào” – tiếng vợ Vũ như khóc. Tiếng Vũ:
“Anh biết, nhưng em cho anh theo đuổi hết vụ này đã. Đấu tranh này là trận cuối
cùng”.
Tôi rời nhà Vũ với tâm
trạng nặng nề. Biết nói gì đây. Vũ ơi, đời chúng mình chỉ như một que diêm ẩm,
sao cứ đòi đốt cháy cả khu rừng. Không thương nổi vợ con mình, sao thương được
ra xã hội. Tháng ngày nhọc nhoài trôi. Hai năm sau, có lần vào facebook xem một
video clip, tôi tình cờ bắt gặp Vũ đi trong một đoàn biểu tình. Linh cảm điều
gì đó chẳng lành, tôi thấy lo cho Vũ.
Ngay đêm ấy tôi mơ thấy
Vũ. Một buổi chiều nắng rất vàng, có chiếc xe đầy bụi đường ập đến trước cửa
nhà Vũ. Vũ bị đẩy lên thùng xe, chỉ kịp mang theo một cái lược. Các anh đưa tôi
đi đâu? Vũ hỏi. Ba Vì. Để làm gì? Trên đó có một đàn bò đang rất cần anh.
Đêm khác tôi lại mơ thấy
cánh cửa nhà Vũ đầm đìa máu. Máu đỏ tươi rực rỡ trên mặt gỗ và chảy xuống thành
những dòng kẻ sắc như khuông nhạc. Mùi máu sực lên lợm đến mức làm tôi tỉnh
giấc ngay sau đó.
Hôm sau tôi quyết định
đi Hà Nội. Vào xế chiều. Không gọi điện trước cho Vũ.
Tôi tìm vào ngõ hẻm
trong đêm. Một tiếng lá bàng rơi cũng làm tôi hồi hộp. Đến trước khu nhà còn
sáng điện, tôi đứng lặng người. Cửa nhà Vũ đỏ loang màu máu. Màu của sơn. Ai đó
đã hắt cả thùng sơn đỏ vào cánh cửa.
– Chúng nó cảnh cáo mình
đấy – Vũ giải thích – Sáng ngủ dậy, mở cửa ra đã thấy đỏ lòm như thế rồi.
Tôi hỏi chúng nó là ai.
Vũ cười. Thì là chúng nó, chứ biết là ai.
Vũ dạo này đẫy ra. Anh
cho biết đã được bổ nhiệm làm trưởng phòng, năm tới có thể lên phó giám đốc một
cơ quan văn hoá. Vợ cũng xin được vào làm ở một công ti trong nội thành.
– Cậu xem, tớ mới có
chức tước một năm mà của nả đã đầy nhà – Vũ khoát tay chỉ đống bàn ghế giường
tủ, cười nhạt.
Trong lúc chờ vợ làm món
để uống rượu, Vũ chậm rãi rót trà ra hai chiếc tách. Anh nói:
– Họ cất nhắc mình là có
mục đích. Lấy chức vụ, quyền lợi để ràng buộc mình. Mình muốn nhúc nhích đấu
tranh cũng không được.
Tôi im lặng. Vũ đổi cách
xưng hô:
– Anh biết đấy, gầm trời
thênh thang, đời thằng Vũ này có sợ cái gì. Nếu chỉ một thân trên cõi đời thì
chết ngay bây giờ cũng được. Nhưng mình còn có vợ có con, không thể đem vợ con
ra đánh bạc. Mỗi lần nhìn vào mắt đứa con gái, đôi mắt nó trong veo như nền
trời hè, tôi lại không đành…
Tôi nhìn bức ảnh Văn Cao
trên tường. Những ngón tay khô gầy của ông nâng chén rượu, bình thản. Và nhìn
cái vòng kim cô vô hình trên đầu Vũ, tôi hỏi, phải chăng trước cái ác, anh đã
đầu hàng.
– Con bé hàng ngày đi
học khá xa, ai có thể lường trước được điều gì sẽ xảy ra trên đường. Anh thấy
đấy, lối vào ngõ này cũng tối.
Vũ nói như lảng tránh.
Đêm ấy, bên mâm rượu, Vũ
dùng bàn tay bốn ngón xé mực khô chấm vào đĩa mù tạt. Nước mắt anh chảy ra,
không biết vì xúc động hay vì cay. Nhìn những cử chỉ vụng về của anh, cùng đôi
dép lê loẹt quẹt, bộ quần áo ngủ kẻ sọc, lần đầu tiên tôi cảm thấy cái gì đó
hèn hèn.
Sáng hôm sau, lúc ra về
tôi hỏi Vũ vì sao anh không sơn lại cánh cửa. Vũ giải thích, vợ anh muốn giữ
nguyên như thế để làm dấu hiệu nhắc nhở chồng. Sờ tay lên cửa, anh nói, giọng u
uất:
– Tôi sợ cái màu này lắm
rồi.
Ra khỏi thành phố, tôi
chợt nảy ý định thăm lại nơi Vũ đã từng vang bóng một thời. Xuống xe khách giữa
đường, tôi đi bộ vài cây số vào thị trấn. Không rẽ qua kí túc xá trường đại
học, tôi lặng lẽ đi về phía hồ, theo con đường vắt qua dải đồi vắng vẻ. Đang là
mùa đông, gió vi vút trên đồi xa. Dưới kia, mặt hồ xanh biếc hiện ra qua những
thân bạch đàn trắng tinh, vài chùm lá lật phật reo trong gió một ngày nắng ấm.
Nhìn màu lá bạch đàn đỏ úa, tôi nghĩ đến cái màu đã đi theo Vũ quá nửa cuộc
đời. Chiếc áo thun rực lửa. Máu của nàng sinh viên cụt đầu. Máu nhuộm những vần
thơ. Viên ngọc rubi, cùng màu sơn trên cánh cửa.
Nhìn lại lần cuối mặt hồ
xanh biếc, tôi rời khỏi khu đồi, lòng bâng khuâng buồn. Dẫu sao, tôi đã được
sống cùng thời với Vũ.
Hà Nội, 5-2016
P.D.N
Nhận xét