4680. GS. Nguyễn Huệ Chi - Dạy chữ Hán cho học sinh đã trở thành một nhu cầu cấp bách
GS. Nguyễn Huệ
Chi - Dạy chữ Hán cho học sinh đã trở thành một nhu cầu cấp bách
Cần nhắc lại lần nữa, khi ta nói dạy chữ Hán trong nhà trường là dạy chữ
Hán Việt Nam, tức là chữ Hán đọc theo âm Hán Việt và dùng theo nghĩa của người
Việt, không phải là dạy Trung văn.
Về cơ bản tôi tán thành quan điểm của PGS TS Đoàn Lê Giang (xem
Phụ lục 1) và không tán thành hết mọi ý kiến trong bài trả lời phỏng vấn của
PGS Phan Trọng Đạt (xem Phụ lục 3). Như đã viết trên FB, tôi nhớ năm 1990, GS
PL xây dựng một dự án “về sự ra đời của chữ quốc ngữ trong xu thế phát triển
của văn học VN hiện đại” để xin tài trợ của Nhật, tôi là một thành viên Viện
Văn học được cử đến trao đổi với chuyên gia văn hóa Nhật Bản. Không ngờ bị họ
phản bác rất mạnh. Cả mấy học giả Nhật đều lập luận: Việt Nam bỏ học chữ
Hán và chữ Nôm là sai lầm, trẻ em sẽ không còn biết gì về văn hóa truyền thống
hàng ngàn năm của đất nước mình. Khi chúng lớn lên, người Việt Nam thế nào
cũng lâm tình trạng mất gốc dù nhiều hay ít. Ở Nhật, trẻ em vẫn phải học 3000
chữ Hán cổ. Và đó không phải là học văn hóa Trung Quốc mà học cho văn hóa Nhật
Bản. Chúng tôi cãi không lại họ và cuối cùng dự án của PL bị từ khước.
Tôi nghĩ, vào năm 1932 cụ Phan Khôi phản đối dạy chữ Hán ở
trường tiểu học Pháp - Việt (trong bài Đánh đổ cái thuyết dạy tiểu học bằng chữ
Nho), đó là cụ quan niệm dạy chữ Hán thay cho tiếng Việt như một ngôn ngữ phụ,
và học chữ Hán theo cách hiểu của cụ là học đạo lý, còn chúng ta đề xuất dạy
chữ Hán cho các em hôm nay là dạy xen một số giờ chữ Hán, bên cạnh tiếng Việt
là ngôn ngữ chủ thể và tiếng Anh đứng thứ hai, thì rất nên. Không những nên mà
còn cần thiết, bởi hoàn cảnh lịch sử đã đẩy Việt Nam vào khu vực văn hóa Đông Á
kể từ trước thiên niên kỷ I – cùng với Nhật Bản, Triều Tiên – khiến cho tiếng
Hán trở nên gắn bó lâu dài, khăng khít cũng như chiếm một tỷ trọng không hề nhỏ
trong tiếng Việt hiện đại. Mà tiếng nói – ngôn ngữ – vốn là một trong những
thành tố hệ trọng góp phần quyết định sự tồn vong của một dân tộc, thì lại là
một chân lý hiển nhiên, đã được minh chứng trên khắp các châu lục từ xưa đến
nay (Phạm Quỳnh: “Truyện Kiều còn tiếng ta còn, tiếng ta còn nước ta còn”). Vì
nhu cầu giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, thậm chí giữ cho kho từ vựng
tiếng Việt trải mấy nghìn năm không bị mai một, suy thoái, để dân tộc không rời
vào mất gốc mà bắt buộc dạy chữ Hán trong trường học phổ thông với một liều
lượng nào đấy, không phải là điều phi lý. Tất nhiên học chữ hay nói như PGS Đạt
là học từ, không thể nghĩ đơn giản chỉ học ký âm theo tiếng Latinh là đủ, mà
phải bao gồm cả học cách viết chữ Hán cổ cùng với âm đọc chữ Hán của người Việt
(Hán Việt), vì lẽ trong ngôn ngữ học, đã nói đến ký hiệu thì có cả phần chữ và
phần âm, và học như thế cũng tức là học cả cái nội hàm văn hóa tích hợp trong
mỗi chữ. Nói cách khác, đem chữ Hán vào trường học là một cách để các thế hệ
trẻ người Việt nhập tâm, thâu hóa vốn liếng văn hóa cha ông ta nhiều đời tích
lũy được, khác hẳn việc bảo lưu ngôn ngữ Hán Việt trong từ điển, do chỗ từ điển
chỉ là một kho chứa thuần túy, không thể nào làm cho nội hàm văn hóa của từ ngữ
sống dậy, tiến kịp với hành trình của dân tộc.
Dưới thời Pháp thuộc, Nha học chính Đông Pháp chẳng phải đã tổ
chức thành công bộ sách Hán văn tân giáo khoa thư, 6 tập, do Lê Thước và Nguyễn
Hiệt Chi soạn, cùng với bộ Quốc văn giáo khoa thư, 6 tập, do nhóm Trần Trọng
Kim soạn, được dùng cho cấp tiểu học cho đến tận 1945 đấy là gì. Người Pháp
thực dân hẳn phải đánh giá lịch sử văn hóa văn minh của dân tộc chúng ta như
thế nào sau khi đã lắng nghe nhiều kiến nghị của trí thức bản xứ, mới chấp nhận
một chương trình giảng dạy có thêm hai phần như đã nói vào chương trình giáo
dục Pháp - Việt ở bậc học 6 năm đầu tiên trong đời đi học của trẻ em người
Việt. Hai bộ sách ấy hiện vẫn còn lưu dấu trong ký ức nhiều bậc cao tuổi, và thực
tế cho thấy, những thế hệ được học hai chương trình đó từ tuổi còn rất nhỏ, sau
này ra gánh vác việc đời dù ở cương vị nào, phần lớn đều có được cái nhìn nhân
văn, có cách khu xử thấu đáo, chuẩn mực, và có tầm viễn kiến, ít để lại những
hệ lụy đáng lo ngại như những gì mà hầu hết lớp người cầm chịch hiện nay đang
hành xử.
Cần nhắc lại lần nữa, khi ta nói dạy chữ Hán trong nhà trường là
dạy chữ Hán Việt Nam ,
tức là chữ Hán đọc theo âm Hán Việt và dùng theo nghĩa của người Việt, không
phải là dạy Trung văn. Do chữ Hán từ một công cụ hành chính của quốc gia phong
kiến buổi đầu, sau nhiều đời đã thấm vào lời ăn tiếng nói của nhân dân, lại
được trải nghiệm, tích hợp trong bối cảnh đặc thù của lịch sử Việt Nam, nên tư
duy Hán ngữ của người Việt, kể cả tầng lớp nho sĩ, không còn nhất nhất rập
khuôn tư duy Hán ngữ của người Tàu, mà có dịch chuyển dần dà cả về sắc thái ngữ
nghĩa cũng như đôi nét cá biệt về ngữ pháp. Chính vì thế mà Lương Khải Siêu khi
đọc Việt Nam vong quốc sử của Phan Bội Châu (1905) có chỗ đã không hiểu được
dụng ý dùng chữ của cụ Phan, phải than thở: chữ Hán hình như chưa tinh tường
lắm (1). Kỳ thực cụ Phan là người Việt, cụ không đúc khuôn cách thức biểu đạt
ngôn ngữ răm rắp theo Trung Quốc (điều này khi tôi sang Trung Quốc và khi PGS
Trần Thị Băng Thanh sang Trung Quốc đều nghiệm thấy khá rõ. Cả trong chú giải Liêu
trai chí dị, một bộ sách văn ngôn vào loại khó, của học giả Trương Hữu Hạc –
được coi là nhà Liêu trai học hàng đầu – chúng tôi vẫn nhận ra có những chỗ ông
ta chấm câu khác cách chấm câu của giới Hán học Việt Nam. Những kết quả lâu dài
tạo nên sự khu biệt nói trên phải coi là thành quả của văn hóa chúng ta, nếu
không truyền lại cho lớp trẻ thì chắc chắn sẽ tiêu tán, thất lạc dần đi.
Tôi nhớ năm 1992, trong Hội thảo khoa học về núi Bài Thơ tại
Quảng Ninh (2) – Lê Thánh Tông cho khắc trên núi này bài ký điều quân đi tuần
hành vùng Đông Hải kèm với bài thơ của ông, ngay từ thế kỷ XV, rồi các đời sau
còn nhiều danh sĩ đến vãng cảnh khắc thêm thơ văn, nhưng có lẽ đến giữa thế kỷ
XX, do chữ Hán lần lần mất ý nghĩa trong đại chúng nên di tích bị xâm hại – nhân
tình trạng xuống cấp của một cụm di tích quý, GS Hà Văn Tấn có bàn với tôi và
GS Phan Huy Lê cùng nhau làm một kiến nghị gửi Bộ Giáo dục đề nghị bổ sung thêm
một vài tiết học chữ Hán vào chương trình tiếng Việt ở bậc trung học cơ sở và
trung học phổ thông, tuy vậy khi trao đổi thì thấy chương trình đã quá nặng nên
đành xếp lại. Phải nói thuở ấy, di tích-di sản lịch sử và văn hóa đã bị phá
hoại rất nhiều nhưng trong đời sống ngôn ngữ – trên báo chí hàng ngày cũng như
trong văn chương sách vở – cách dùng tiếng Hán Việt vẫn còn khá chuẩn, chưa đến
nỗi lệch lạc và tùy tiện như ngày nay. Vì thế, nếu đến giờ phút này mà người
phụ trách giáo dục vẫn còn nhẩn nha, chưa quyết tâm đem chữ Hán vào trường học,
thì sự tuột dốc của sinh hoạt ngôn ngữ – cả ngôn ngữ khoa bảng và ngôn ngữ đời
sống – chưa biết thế nào mà nói trước. Hãy cố gắng động não nhằm bỏ bớt những
phần học vô bổ cho chương trình bớt nặng – hẳn không khó lọc ra nếu các vị lãnh
đạo thành tâm muốn vậy – thì chắc chắn có thể dạy thêm môn học Hán Nôm.
Còn nói như PGS Đạt: bắt học sinh học chữ tượng hình là đi ngược
quy luật ngôn ngữ hiện đại thì tôi không thể hiểu. Một nhà triết học nổi tiếng
của Pháp hình như là Jacques Derrida (1930-2004) thì phải (có thể tôi nhớ không
chính xác), trong các công trình giải cấu trúc luận của mình, khi phản bác ký
hiệu học cổ điển coi trọng phần âm mà coi nhẹ phần chữ, đã từng lưu ý rằng chữ
tượng hình là thứ ngôn ngữ chứa đựng trong từng chữ cả một kho tư tưởng, khác
với chữ ký âm, đọc vào chỉ là đọc con chữ hời hợt và không thu nhận được một
chút tư tưởng gì. Hay nói như nhà ngôn ngữ học phương Đông người Pháp
Jean-François Champollion (1790-1832): “Chữ tượng hình là một hệ thống phức
hợp, một thứ văn tự mang cùng lúc cả tính tượng hình, tính tượng trưng, cả năng
lượng ngữ âm, ngay trong một văn bản, trong một câu, thậm chí gần như trong
cùng một từ” (L’écriture hiéroglyphique est un système complexe, une écriture
tout à la fois figurative, symbolique et phonétique, dans un même texte, une
même phrase, je dirais presque un même mot). Thế thì giúp các em thêm một hình
thức tư duy tổng hợp cho đầu óc tưởng tượng mở mang phong phú thêm, có gì mà đi
ngược quy luật? Ông Đạt lại nói học tử ngữ sẽ không tốt cho việc học sinh ngữ.
Tôi cũng không hiểu. Thế người đi học trường Pháp trước đây vào Ban Triết thì
phải học tiếng Latinh thì cũng là tử ngữ đấy chứ, mà có ai tồi tiếng Pháp và
tiếng Anh đâu. Chỉ có chúng ta được đào tạo trong nhà trường XHCN chủ trương bỏ
ngoại ngữ suốt mấy chục năm (1952-1975), rồi sau 1975 mới cho dạy lại, nhưng
phương pháp dạy đại trà, ít có thầy cô giỏi, thì sinh ngữ mới kém cỏi thôi. Cứ
so sánh trình độ ngoại ngữ của học sinh sinh viên giữa hai miền Nam Bắc trong
thời gian 1955-1975 thì rõ.
GS. Nguyễn Huệ Chi
(FB Trần Quang Đức, có bổ sung)
--------------------------
(1) Điều rất lạ kỳ là trong bộ Ẩm Băng thất văn tập飲 冰 室 文 集 do Quảng
Trí thư cục Thượng Hải in năm 1905, Lương Khải Siêu lại đem cả Việt Nam vong quốc
sử vào đấy, coi như một tác phẩm của mình.
(2) Hội thảo do Tỉnh ủy Quảng Ninh tổ chức, mời Ban Văn học Cổ
cận đại Viện Văn học chủ trì.
(Bauxite)
Nhận xét