4176. Quy luật lượng – chất và cán bộ “tàng hình”
Quy luật lượng – chất và cán bộ “tàng hình”
Sự biến đổi về lượng thì từ từ, sự biến đổi về chất thì nhảy vọt (Ảnh sưu tầm, chưa rõ tên tác giả) |
GDVN) - Làm thế nào
để chuyển hóa vô cảm thành tình thương, dối trá thành trung thực,
tội ác thành lương thiện nếu lại dựa vào chính sự vô cảm.
Trong các bài “Mâu thuẫn nào là động lực
phát triển xã hội?” [1] và “Quy luật phủ định, sự đảo
chiều cần thiết” [2] người viết đã làm một phép tham chiếu
đơn sơ tới hai trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật trong
triết học Mác - Lênin: “Quy luật mâu thuẫn” và “Quy luật phủ định”.
Bài viết này đề cập đến quy luật
thứ ba “Quy luật lượng - chất” hay còn gọi là “Quy luật chuyển hóa từ những sự
thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại”.
Friedrich Engels (Phriđrich Ăngghen 1820 -
1895) đã giải thích Quy luật lượng-chất một cách ngắn gọn như sau: “Những thay đổi đơn thuần về
lượng, đến một mức độ nhất định, sẽ chuyển hóa thành những sự khác nhau về chất”.
Một cách giải thích khác về quy
luật này là: “Sự biến đổi về lượng thì
từ từ, sự biến đổi về chất thì nhảy vọt”.
Khi còn xanh thành phần chủ yếu trong
quả chuối là tinh bột (70-80%), chuối già chỉ cần 3-5 ngày giấm là
thay đổi hoàn toàn về chất, vỏ biến thành màu vàng, thành phần
chính lúc này không phải là tinh bột mà là đường sucrose, fructose và
glucose, hàm lượng của các loại đường có thể đạt hơn 16% trọng lượng quả tươi. Theo
quy luật này, nếu không có sự biến đổi về lượng thì sẽ không có sự
biến đổi về chất, chỉ khi nào sự biến đổi về lượng đạt đến một
mức độ nhất định thì sự chuyển hóa về chất mới diễn ra, một khi
đã diễn ra chuyển hóa về chất thì quá trình này sẽ rất nhanh
chóng.
Quy luật lượng-chất vừa đúng cho sự
phát triển xã hội, cũng đúng cho các hiện tượng tự nhiên.
Chẳng hạn buồng chuối từ lúc đâm hoa
đến lúc “chín bói” phải mất mấy tháng.
Từ các Nghị quyết Trung ương, đặc
biệt là Nghị quyết 4 khóa 11, Đảng đã nhận diện các mặt tích cực,
tiến bộ cũng như tiêu cực, yếu kém của thể chế chính trị, kinh tế,
xã hội hiện tại.
Đời sống người dân được cải thiện
một phần, hạ tầng cơ sở, đặc biệt là giao thông có tiến bộ, GDP tăng
liên tục, đất nước trở thành quốc gia có thu nhập trung bình, hệ
thống luật và văn bản quy phạm pháp luật tương đối đồng bộ… là
những thay đổi theo hướng tích cực mà thế giới thừa nhận.
Tuy nhiên tập thể lãnh đạo - thể
hiện trong các văn kiện chính thức cũng không ngại đề cập đến hiện
trạng đạo đức, văn hóa xuống cấp; niềm tin của nhân dân với Đảng suy
giảm [3]; tham nhũng tràn
lan chưa được đẩy lùi; năng lực cán bộ, đặc biệt là đội ngũ tham gia
hoạch định đường lối chưa theo kịp nhu cầu; lợi ích nhóm, đặc biệt
là các “nhóm thân hữu” có lúc, có nơi lấn át lợi ích quốc gia, dân
tộc…
Theo quy luật, muốn có sự thay đổi
về chất xã hội Việt Nam, tức là muốn xây dựng đất nước thành một
quốc gia “dân giàu, nước mạnh, công
bằng, dân chủ, văn minh” thì sự thay đổi về “lượng” phải
đạt đến một ngưỡng nhất định và “lượng” đó phải bao gồm các “chất”
có thể chuyển hóa thành “công bằng, dân chủ, văn minh”.
Chẳng hạn tinh bột có thể chuyển
hóa thành đường nhưng mảnh sành thì không thể. Khái niệm “lượng” ở
đây bao gồm cả hữu hình và vô hình (phi vật thể).
Tìm hiểu những “lượng” và “chất”
của “lượng” mà xã hội Việt Nam tích lũy được từ sau khi thống nhất
là vấn đề rộng, trong khuôn khổ bài viết chỉ có thể đề cập một vài
khía cạnh.
Số lượng Đảng viên cuối năm 2015 vào
khoảng 4,5 triệu người. Năm 1976, sau khi thống nhất, vào dịp Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ 4 (từ 14 - 20/12/1976), Đảng có 1.550.000 đảng
viên. [4]
“Một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả cán
bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu
hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ
hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham
nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...; làm giảm sút lòng tin của nhân dân
đối với Đảng”.
Bộ phận không nhỏ ấy, không biết
chiếm bao nhiêu phần trăm nhưng chắc chắn là “không nhỏ”, khi số lượng
đảng viên tăng lên nhanh chóng mà lại chưa (hoặc không) kiểm soát được
chất lượng thì tỷ lệ “không nhỏ” đương nhiên sẽ tăng, ít nhất là tỷ
lệ thuận theo số lượng.
Từ nhận định của Trung ương có thể
thấy một nghịch lý: “lượng” đảng viên tăng lên khá nhanh trong khi
“chất” của “bộ phận không nhỏ đảng viên”
lại theo chiều ngược lại.
Vậy sự thay đổi về lượng đảng viên
đã “đủ độ” để xuất hiện sự thay đổi về chất chưa? Nếu sự chuyển
hóa về chất diễn ra tại thời điểm này thì xu hướng sẽ như thế
nào?
Với lực lượng nắm quyền dẫn dắt xã
hội, nhưng lại có một “bộ phận không nhỏ suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống”, kèm theo đó là một
bộ phận “cũng không hề nhỏ” yếu kém về năng lực quản lý, điều
hành… nếu sự “biến đổi về chất” xảy ra vào thời điểm này sẽ không
phải chuyện đơn giản.
Để làm chậm bước “nhảy vọt” về
chất theo hướng tiêu cực thì điều cần là phải kìm hãm sự tăng quá
nhanh về “lượng”, nói cách khác, cần ngay lập tức cho ra khỏi Đảng
những phần tử thoái hóa, cơ hội, tham vọng quyền lực chứ không phải
chỉ là kêu gọi không đưa vào Trung ương các đối tượng này. Sự giảm
số lượng phải bắt đầu từ các chi bộ cơ sở.
Thực tế cho thấy, tại các vùng nông
thôn, kể cả ngoại thành Hà Nội, chuyện đảng viên nắm vai trò chủ
chốt (Bí thư – Chủ tịch) đối phó với chính sách cán bộ bằng cách
mua bằng, mượn bằng, sử dụng bằng rởm, thuê người thi hộ… đã diễn ra
và cho đến nay vẫn chưa có dấu hiệu thuyên giảm hoặc dừng lại.
Bằng chứng là mới đây, Chủ tịch một
xã ở Hà Nội nhờ người thi hộ 25 môn trong chương trình cử nhân tại
Viện Đại học Mở hay Trưởng ban Tổ chức thành ủy Vị Thanh tỉnh Hậu
Giang “mượn” bằng phổ thông của người khác để hợp thức hóa hồ sơ…
"Năm 2001, Bộ GD&ĐT phát
động phong trào thanh tra bằng giả, đưa thành chủ trương của ngành. Đến năm
2005, sau 4 năm, đã phát hiện được 10.000 bằng giả. Số bằng giả này chủ yếu tập
trung ở công chức nhà nước trong đó có cả cán bộ ở cấp Trung ương”.
[5]
Gian dối về bằng cấp chỉ là ví dụ
minh họa cho sự yếu kém về đạo đức một bộ phận cán bộ đảng viên
hiện tại. Tình trạng “Chi bộ họ”, “huyện họ” tuy chưa phổ biến nhưng
cũng đã được cảnh báo.
Sau những vụ án oan Nguyễn Thanh
Chấn, Huỳnh Văn Nén,… sau Đại hội Đảng 12, sự lộng quyền của một bộ
phận cán bộ, đảng viên vẫn tiếp tục xảy ra, mới nhất là ở Bình
Chánh – thành phố Hồ Chí Minh.
Trong khi những biện pháp nâng cao
chất lượng cán bộ, đảng viên chưa phát huy tác dụng, thì biện pháp
cơ học là nên giảm sự tăng về số lượng kết hợp với thanh lọc đội
ngũ hiện có.
Chưa làm được điều này, nóng vội sẽ
xuất hiện sự đối phó mà bằng chứng dể thấy là đội ngũ “cán bộ
tàng hình”, họ không chỉ “tàng hình” trước trách nhiệm được Đảng,
Nhà nước và nhân dân giao phó mà cũng “tàng hình” trước hệ thống
pháp luật hiện hành.
“Sợi dây kinh nghiệm” càng rút càng
dài, đội ngũ cán bộ, công chức phình to như chiếc bành mì quá nhiều
bột nở, to nhưng không ngon.
Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
ngày 25/4/2016 trong bài “Khai mạc phiên họp thứ 47 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội” đăng ý kiến của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân:
“Vấn đề bố trí cán bộ là ai làm
hội đồng, cứ cán bộ yếu rồi cho làm hội đồng, rồi làm hội đồng lại không có
triển vọng phát triển nữa, đó mới là vấn đề chứ không phải việc tăng thêm 0,1
mức lương cơ sở. Cán bộ không bố trí vào đâu được
nữa mới đưa về hội đồng có phải không?”.
Quốc hội khóa 1 năm 1946 có 334 đại
biểu, dân số cả nước lúc đó vào khoảng 20 triệu người, trong số đại
biểu Quốc hội khóa 1 có người của Việt Quốc, Việt Cách, nhân sĩ, trí
thức… không phải đảng viên.
Dân số Việt Nam năm 2016 vào khoảng 90
triệu người, tăng gấp 4 lần so với năm 1946 nhưng số đại biểu Quốc
hội chỉ khoảng 500 nghĩa là tăng gấp khoảng 1,5 lần.
Về thành phần đại biểu Quốc hội,
ông Lù Văn Que - Chủ nhiệm Hội đồng tư vấn về dân tộc của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam - Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
cho rằng: “Quốc hội không nên là hội nghị
đảng viên mở rộng”. [6]
Bà Nguyễn Thị Hoài Thu, nguyên Ủy viên
Ban chấp hành Trung ương Đảng, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban các vấn đề xã hội của
Quốc hội khóa X trong bài phỏng vấn đăng trên Vietnamnet.vn ngày 11/4/2016
cho rằng:
Những phát biểu nêu trên phần nào cho
thấy “chất” của “lượng” bên trong các cơ quan dân cử. Sự chuyển hóa
những “chất” đó thành luật hoặc văn bản quy phạm pháp luật khiến cho
không ít trường hợp luật, nghị quyết, nghị định ban hành không phù
hợp với thực tiễn.
Đã có khá nhiều ý kiến đề cập đến
lực lượng hùng hậu của các tổ chức chính trị xã hội mà ngân sách
phải đài thọ như Mặt trận Tổ quốc, Công đoàn, Thanh niên, Phụ nữ, Cựu
chiến binh… Các tổ chức này đều không sản xuất ra của cải vật chất
nhưng sử dụng một khoản ngân quỹ không hề nhỏ.
Sự thay đổi về “lượng vô hình” dễ
nhận diện nhất trong xã hội ngày nay là sự vô cảm. Người nông dân
sẵn sàng sử dụng chất cấm, chất độc trong trồng trọt, chăn nuôi;
người kinh doanh sẵn sàng buôn hàng lậu chứa đầy chất có hại cho sức
khỏe, doanh nghiệp thủy điện sẵn sàng chặn nước bức tử cả dòng
sông… miễn là thu được lợi nhuận cao nhất.
Thói vô cảm hay là sự “tàng hình” liệu có
thể gọi là tội ác?
“Tham nhũng là những người có chức
vụ quyền hạn, chống lại cơ chế xin cho. Chúng tôi chống lại có khi
'chết' trước” là phát biểu của ông Phạm Trọng Đạt, Cục trưởng Cục
Phòng chống tham nhũng, Thanh tra Chính phủ tại hội nghị tổng kết 10 năm thực
hiện Luật Phòng chống tham nhũng do Bộ Tư pháp tổ chức.
Làm thế nào để chuyển hóa vô cảm
thành tình thương, dối trá thành trung thực, tội ác thành lương thiện
nếu lại dựa vào chính sự vô cảm, dối trá, dựa vào lực lượng sợ
“chết trước”?
Quả chanh có vị chua, dù chín vàng
vẫn chua, quả cà chua dù chín đỏ vẫn không có vị ngọt bởi quan
trọng là “chất” của lượng vật chất chứa trong quả.
Hiểu về Quy luật lượng – chất nghĩa
là phải hiểu rằng, không phải bất kỳ sự biến đổi về chất nào cũng
mang lại cho con người quả ngọt nếu bên trong “quả” không có chất có
thể chuyển hóa thành đường.
Muốn điều chỉnh quá trình biến đổi
“chất” thì cần phải tác động sao cho sự biến đổi về “lượng” không
kèm theo sự tích lũy những chất có hại, một khi sự tích lũy các
“tiền chất” có thể chuyển hóa thành tham nhũng có
xu hướng tăng mạnh thì cần kìm hãm không để sự tích lũy đó đạt đến
ngưỡng không thể điều chỉnh.
Sợ chết mà thoát chết thì mới nên
sợ, cuộc sống nơi cõi trần của mỗi con người chẳng qua chỉ là một
thoáng so với sự tồn vong của quốc gia, dân tộc, vì thế không thể
không chung tay góp sức để khẩu hiệu “dân giàu, nước mạnh, công bằng,
dân chủ, văn minh” sớm trở thành hiện thực.
Tài liệu tham khảo:
[4] http://cand.com.vn/Van-de-hom-nay-thoi-su/dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-iV-nam-1976-379198/
Xuân
Dương/ (GDVN)
Nhận xét