4094.Phía Bắc Phòng Tô ấn tượng ký
Phía Bắc Phòng Tô ấn tượng ký
Nguyễn Ngọc Dương/PNTB
Địa
danh Phong Thổ (tỉnh Lai Châu), thời Pháp thuộc gọi là Phòng Tô. Qua thành phố
Lai Châu, trên quốc lộ 4D, hướng lên thị trấn Phong Thổ, đến ngã ba Mường So
nổi tiếng thì quẹo phải tiến lên phía Bắc. Nhìn trên bản đồ, huyện Phong thổ
như một ngọn núi nhọn hoắt đâm thẳng lên… giời. Phía trên là tỉnh Vân Nam
thuộc Trung Hoa đại lục. Dào San, Sì lở Lầu là hai xã phía Bắc Phong Thổ, nghĩa
là nó nằm gọn trên phần đỉnh của “ngọn núi nhọn”, trong đó Sì Lở Lầu ở trên,
Dào San ở dưới. Đó là một vùng biên giới hiểm trở, phức tạp… Để tới được Dào
San, phải ngược dốc, qua những địa danh như Bản Lang, bản Pho…Xe leo trên đèo,
nhìn sang hai bên là những ngọn núi đá cao chất ngất, dưới là hun hút thung
sâu.
Nơi
chúng tôi tá túc là Đồn Biên phòng Dào San. Đồn trưởng đi công cán, ở nhà có
thiếu tá Phó trưởng đồn Nguyễn Văn Hiếu và Trung tá - Chính trị viên Vàng A
Lầu. Chưa từng gặp nhau bao giờ mà các anh đón tiếp chúng tôi như thể đón người
thân. Có lẽ những người canh giữ biên cương rất khát khao tình cảm. Cũng phải
thôi, Hiếu cho biết, “Hồi vừa cưới vợ được một tháng, anh phải đi Bình Phước, “lặn
mất tăm” 9 tháng sau mới được về thăm vợ, cảm xúc hôm ấy như… lặp lại đêm tân
hôn. Năm 2014, từ giảng viên Học viện Biên phòng, được tăng cường cho Dào San,
Tết ở lại trực Đồn, nên vợ con Hiếu phải tình nguyện lên … “trực” cùng !
Đang
“cày giấy”, đùng một cái đi “cày rừng”, mà lại là rừng biên ải nơi đèo heo hút
gió, đối với một thư sinh như Hiếu thì quả thật là một thử thách. Đấy là tôi
nghĩ vậy, chứ với Hiếu cũng như các chiến sĩ biên phòng khác, họ đã xác định
được nhiệm vụ của người lính trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc thì không được
quyền chọn lựa nhiệm vụ, và đã là lực lượng vũ trang thì “quân lệnh như sơn”.
Có
lẽ hiếm có một đồn Biên phòng như Dào San, quản lý hai đoạn biên giới tách biệt
nhau như hai cạnh bên của một hình thang. Đó là đường biên giới phía Đông và
đường biên giới phía Tây. Hiếu cho biết, phía Tây thì còn đỡ, vì biên giới được
ngăn cách bởi sông suối tự nhiên, chứ phía Đông là đất liền, nhưng lại là rừng
núi âm u, cheo leo vách đá, cực kỳ hiểm trở. Mỗi lần đi tuần tra đường biên từ
3 đến 5 ngày, thường là một tuần lễ. Khi đi phải mang vác gạo, thực phẩm, chăn
bông, áo mưa…nhưng nhiều đêm vẫn không ngủ được. Ở độ cao trung bình trên
2000m, có điểm như mốc 82, 83 cao độ từ 2600 đến 2800 m, nghĩa là chỉ còn hơn
300 m nữa là ngang hàng với đỉnh Fansipan, nóc nhà Tổ quốc. Nơi ấy quanh năm
sương mù giá lạnh, mùa đông thì cực kỳ rét buốt. Anh em phải chặt lá cây rải xuống,
phủ áo mưa lên làm đệm nằm, nhưng cái lạnh thấu xương cũng khó mà yên giấc. Có
túi ngủ nhưng nếu mang theo thì rất cồng kềnh vì phải leo trèo vào những địa
hình mà đến đi người không cũng khó khăn. Có những chỗ phải bám vào rễ cây bên
vách đá dựng đứng để đu sang vách bên kia như người làm xiếc, qua một cái khe
hẹp, phía dưới là vực sâu thăm thẳm không thấy đáy. Nói dại, chỉ sơ sẩy một
chút là cầm chắc cái chết bất đắc kỳ tử! Thần kinh không vững không dám đi.
Thực ra cứ mỗi lần đi một chuyến, về đến nhà mới biết mình còn sống. May mắn
cho đến nay, Đồn chưa bị hy sinh trường hợp nào do tình trạng địa hình hiểm
trở, nhưng tai nạn nhỏ thì không ít. Những ngày mưa rét, dốc cao, đường trơn…đố
ai dám nói mạnh!...
Thiếu tá - Phó đồn trưởng Nguyễn Văn Hiếu đi tuần tra cùng các chiến sĩ đơn vị, nghỉ chân bên suối nước. Ảnh TL |
Về
những khó khăn trong nhiệm vụ của đồn Biên phòng thì kể cả ngày không hết
chuyện. Song, một trong những nhiệm vụ khó khăn nhất, theo thiếu tá Nguyễn Văn
Hiếu, là việc phối hợp với địa phương để xử lý những vấn đề vốn rất phức tạp
trên địa bàn. Cuộc sống của đồng bào nơi heo hút xưa nay luôn vất vả, nghèo
khó, phong tục tập quán lạc hậu, nên nhiều nơi còn tình trạng ‘phép vua thua lệ
làng’…Do đó nếu thiếu sâu sát, thiếu nghệ thuật dân vận, không xây dựng được
mối quan hệ tốt, tạo được niềm tin của người dân đối với Bộ đội biên phòng, với
cấp ủy, chính quyền địa phương thì mọi việc, từ phát triển kinh tế xã hội nhằm
nâng cao đời sống nhân dân đến xây dựng hệ thống chính trị, giữ gìn an ninh nơi
biên cương… vẫn có thể “xôi hỏng bỏng không” !
Nghe
Hiếu nói, tôi càng thấm thía câu khẩu hiệu: “Đồn là nhà, Biên giới là Quê
hương, đồng bào các dân tộc là anh em ruột thịt” được viết trang trọng trước
ngôi nhà chính ở trụ sở Đồn. Tôi hiểu, đối với Hiếu, một sĩ quan biên phòng
đang làm nhiệm vụ hiện thực hóa những
kiến thức của một nhà giáo ở Học viện Biên phòng vào cuộc sống nơi biên cương,
thì điều quan trọng là khẩu hiệu đó phải biến thành hiện thực, chứ quyết không
phải chỉ để trang trí cho đẹp. Đối với Hiếu và khoảng 50 % quân số của Đồn từ
các tỉnh miền xuôi như Hà Nội, Bắc Ninh, Phú Thọ, Yên Bái, Nam Định… lên đây vì
nhiệm vụ thiêng liêng của Tổ quốc, họ đã thầm lặng hi sinh những tình cảm riêng
tư… Chỉ có quan sát trực tiếp những hoạt động thực tiễn và cảm thông sâu sắc
cuộc sống riêng tư của các anh mới thấy, với người lính Biên phòng, có lẽ thời
bình hay thời chiến cũng không khác nhau nhiều.
Đang
sống ở nơi phồn hoa đô thị, nhộn nhịp ồn ào, xô bồ, bụi bặm…, nay ngủ ở đồn
Biên phòng, tôi thấy đêm vô cùng tĩnh lặng. Thông thường, nếu ở nơi yên tĩnh
thì dễ đi vào giấc ngủ, thế mà không, cũng lạ, tôi lại trằn trọc, không yên.
Hay là, chính cái vỏ bề ngoài yên tĩnh chỉ là để che đậy một sự xao động từ sâu
thẳm tâm hồn? Khoảng hai giờ sáng, nghe
xa xa những tiếng gà gáy nối tiếp nhau, thành lớp lang, đậm nhạt như hình ảnh
những dãy núi màu lam gối lên nhau từ gần đến xa; như dàn giao hưởng với những
âm thanh trầm bổng…Những tiếng gà gáy nơi thâm sơn cùng cốc cứ xoáy mãi vào tâm
hồn lữ khách, khiến tôi cảm thấy sự cô đơn của những chiến sĩ biên phòng. Nếu
không vì Tổ quốc thân yêu, vì sự bình yên nơi biên cương, vì toàn vẹn lãnh thổ
và nền độc lập dân tộc từ ngàn xưa mà tiền nhân đã trao lại trọng trách cho hậu
duệ, thì có lẽ chẳng ai muốn dấn thân như các anh! Tôi quấn chăn bông, đôi mắt
hé mở, nhìn ra một tia sáng của ánh đèn bảo vệ lạnh lẽo, ngẫu nhiên lọt qua khe
cửa, tạo thành một “đường ray” do sương mù, đủ biết ngoài trời sương đêm đã phủ
kín cả một vùng trong cái khắc nghiệt của giá lạnh, dẫu những ngày này trời đã
sang xuân…
Được
biết, trong cái “hình thang cân”, địa bàn mà Đồn Biên phòng Dào San phụ trách
gồm 3 xã: Dào San, Tung Qua Lìn và Mù Sang. Vào một buổi chiều, xã Tung Qua Lìn
tổ chức giao hữu bóng chuyền, bóng đá, đương nhiên không thể thiếu những người
lính Biên phòng. Tốp nghệ sĩ nhiếp ảnh chúng tôi được “ăn ghé”, cũng là để góp
vui cho hoạt động văn hóa ở địa phương. Hấp dẫn hơn cả là các cô giáo xinh đẹp
ở trường THCS, trường Tiểu học và Mầm non. Trên sân bóng chuyền, mấy tay máy
trẻ của chúng tôi như Đức Kỳ, Hà Minh Hưng, Trần Anh Tuấn… cùng các chiến sĩ biên phòng và các thầy giáo
lập thành Đội tuyển Nam đấu với các cô giáo vùng cao – Đội Nữ. Họ quy ước bên
nào thua thì phải đãi kem. Cuối cùng thì đội Nam đã thua đội Nữ một cách… ngoạn
mục, chắc có lẽ để được dành phần đãi kem những người đẹp!...
Lên
Tung Qua Lìn, chiếc xe bán tải gầm cao, hai cầu của Đức Kỳ, có thể bất chấp địa
hình, luôn cài số thấp, rồ ga bò từng mét đường trên những đoạn cua tay áo,
nhiều lúc con xe ngóc đầu lên, tài xế chỉ thấy mây trời, không thấy đường!… Lên
đến đỉnh núi, nơi cao nhất thì xuất hiện cụm Trung Tâm xã, bao gồm trụ sở hành
chính, Trường học, Trạm Y tế…
Vì
có tuổi, không tham gia chơi bóng được, tôi cùng Trung úy Sùng A Hùng kéo nhau
ra ngắm những vườn Táo Mèo đang nở trắng hoa, lung linh dưới nắng xuân, mà nhìn
xa ngỡ hoa lê, hoa mận. Bỗng bắt gặp ba đứa trẻ người Mông, đứa lớn ẵm đứa bé,
đứa nhỡ chạy theo đang tiến về một ngôi nhà tranh nhỏ nhắn ở dưới thấp. Một bà
mẹ trẻ xuất hiện ngay đầu ngõ như vị thần Aphrodite trên đỉnh Ô – Lem – Pơ , giang rộng
hai cánh tay, âu yếm đón những “thiên thần” của mình. Theo phản xạ tự nhiên,
tôi giơ máy bấm liền ba file. Không thể tả được cảm xúc sung sướng như thế nào
trong những phút giây “lên đỉnh” ấy. Có lẽ Tung Qua Lìn trở thành ấn tượng đáng
yêu đối với tôi từ đây… Sùng A Hùng đưa tôi vào thăm một gia đình người Mông
trong ngôi nhà nhỏ nhắn, giản dị, thấp lè tè dưới chân đồi. Họ đã quen nhau từ
lâu, không phải chỉ vì cùng một tộc người mà bởi Hùng là chiến sĩ biên phòng
thường xuyên đi công tác dân vận ở địa bàn của mình. Anh thuộc từng nhà, như người
nhà quê thuộc những gia đình hàng xóm. Qua trao đổi câu chuyện của họ bằng
tiếng Mông, tôi hiểu ra, Hùng với gia đình này cũng như với tất cả những người
dân ở địa bàn 3 xã, giờ đây như thể “con ong đã tỏ đường đi lối về”. Khi chia
tay, ông chủ tặng anh một lồng chim, trong đó đang nhảy nhót một con chim quý.
Tôi thầm nghĩ, chiến sĩ Biên phòng Sùng A Hùng đã là người của bà con dân bản
rồi.
Đã
đến Dào San, không thể không lên Sì Lở Lầu, cái tên theo phiên âm tiếng Quan
Hỏa nghĩa là mười hai tầng lầu. Không biết đó là mười hai tầng dốc hay mười hai
lớp núi xếp lên nhau theo cách giải thích của mỗi người, nhưng để lên đó xe
phải lượn trên nhiều đoạn đèo rất nguy hiểm. Thiếu tá – Phó đồn trưởng Nguyễn
Văn Hiếu đích thân dẫn Đoàn gồm 2 xe 7 người.
Đến
đồn Biên phòng Sì Lở Lầu, việc đầu tiên là chúng tôi lên Đài tưởng niệm thắp
nhang, viếng hương hồn các liệt sĩ bộ đội Biên phòng đã bỏ mình vì Tổ quốc thân
yêu, cách nay vừa tròn 37 năm, tháng 2 / 1979. Tuy là người trực tiếp chứng
kiến sự kiện chiến tranh biên giới ngày ấy, nhưng tôi thật sự giật mình khi lần
đầu tiên mới được biết đến vụ hy sinh tập thể của các anh ở Đồn Biên phòng Sì
Lở Lầu. Kẻ thù đã giết các anh một cách dã man và hèn hạ. Đó không phải là cuộc
đấu súng mặt đối mặt trên chiến trường, mà là hành vi “cắn trộm” đê hèn của những
kẻ côn đồ, tay sai bọn mặt người dạ thú. Chúng đã dùng dao cắt cổ những người
đồng niên, cùng máu đỏ da vàng, đã từng có lúc chúng nhận là “bạn bè, anh em,
đồng chí”, khi họ đang say giấc giữa đêm khuya…
Nhìn
những dòng chữ viết tên tuổi các anh tươi rói một màu vàng rực rỡ trên nền đá
xám, nghĩ đến những phút giây kẻ thù giết các anh mà trong lòng tôi trào dâng
nỗi uất hận, nghẹn ngào. Sự ám ảnh bởi cái chết khác thường của các chiến sĩ, khiến
tôi và chắc chắn tất cả những ai là người Việt Nam nhiều thế hệ sau cũng không thể
lãng quên. Đó là đạo lý và tình cảm thiêng liêng.
Tác giả thắp nhang trước Hương Đài tưởng niệm các Liệt sĩ Bộ đội biên phòng |
Trước
Hương đài tưởng niệm những người con đã hi sinh vì nền Độc lập dân tộc, tôi
rưng rưng xúc động, trong lòng nặng trĩu một nỗi buồn!...
Phong Thổ, Tháng Hai năm 2016.
N.N.D
Nhận xét