3688. Làm báo giữa lưng trời Tây Bắc
Làm báo giữa lưng trời Tây Bắc
NNVN/ 07/12/2015, 06:35 (GMT+7)
PNTB: Mình với Thái Sinh (TS – tên thật Nguyễn Đình Sinh) là huynh đệ theo nghĩa “tâm
đồng ý hợp”. Mình hơn 7 tuổi nên TS gọi mình là Anh với nghĩa tôn trọng và quý mến. Năm nay vừa tròn lục tuần, TS được nghỉ hưu như bao người khác hưởng
lương nhà nước, tuy vẫn tiếp tục làm việc với tư cách hợp đồng theo yêu cầu của tờ báo mà 20 năm cuối
của sự nghiệp phóng viên anh coi như “ngôi nhà” của mình. Nhân kỷ niệm 70 năm ra đời Báo Nông nghiệp Việt Nam,
TS đã viết bài này như một lời
tri ân tờ báo đã khuyến khích, động viên anh đi và viết, trở thành một nhà báo
có ấn tượng trong lòng công chúng. PNTB trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
TS - Tây Bắc nơi chứa đựng những câu chuyện huyền bí và hãi
hùng đã thấm đẫm trong tâm hồn tôi từ những ngày còn cắp sách tới trường…Tôi
từng mơ ước được đặt chân tới mọi miền Tây Bắc để khám phá về mảnh đất và cuộc
sống của những con người nơi đây. Báo Nông
nghiệp Việt Nam đã cho tôi cơ hội ấy. Suốt 20 năm làm báo ngang dọc khắp
đất trời Tây Bắc, điều mà tôi nhận ra rằng Tây Bắc là nguồn cảm hứng vô tận,
mảnh đất của những bài viết hay…
Nhà báo Thái Sinh trước cổng dinh thự “vua Mèo” Vương Chí Sình Đồng Văn, Hà Giang (ảnh chụp tháng 4/1998) |
Ám ảnh những miền núi đá
Cuối năm
1997, trong một chuyến lên Mường Khương (Lào Cai) công tác tôi nghỉ nhờ đồn biên
phòng Pha Long, đang là mùa khô cây cỏ xác xơ sau mùa đông dài lạnh giá, cả một
vùng đất chỉ một màu đá xám.
Đá xếp chồng
lên đá, hoang hoải điệp trùng bất tận, những làng Mông mái nhà lợp cỏ nâu xỉn
nhìn từ trên cao xuống giống như chiếc nấm thấp lè tè khuất lấp trong bạt ngàn
rừng đá.
Ông Giàng
Sếnh Pao 72 tuổi người thôn Pha Long chỉ tảng đá bên đường to gần bằng gian nhà
bảo tôi: Đá ở đây biết lớn đấy. Hòn đá này khi tôi biết vác cày lên nương nó
chỉ to bằng cái lù cở, tôi còn bước qua được. Bây giờ nó cao hơn cả đầu tôi
rồi…
Câu chuyện
“đá lớn” của ông già người Mông mà sau này tôi mới hiểu, đó là sau mỗi mùa mưa
tưng bừng và náo nhiệt trên khắp miền núi cao đã bào mòn từng lớp đất màu mỡ
trên bề mặt, làm trơ ra những tảng đá.
Để giữ đất
làm ruộng đời này qua đời khác, người ta phải khuân đá đắp thành các bờ đá dài
dằng dặc, vân vi quanh các sườn núi.
Từ trên núi
nhìn xuống dòng sông Xanh nằm dọc biên giới Việt-Trung nhỏ xíu chảy dọc các xã
Pha Long, Dìn Chin, Tả Gia Khâu, màu nước xanh như dải lụa giữa hai bờ đá xám
lạnh, bởi thế người dân gọi là sông Xanh, còn Trung Quốc gọi là Mã Lục. Sông
Xanh hợp với dòng La Hờ để tạo nên dòng sông Chảy.
Sau cuộc
chiến tranh biên giới tháng 2/1979 nhân dân Hoàng Liên Sơn đã trồng hàng chục
ngàn gốc tre gai dọc đường biên để ngăn cản sự xâm lấn, gây rối của lũ người
xấu từ bên kia tràn sang.
Nhưng giá
rét và mùa khô kéo dài trên núi khiến những bụi tre mới trồng không mọc lên
nổi, việc giữ gìn biên giới thiêng liêng của Tổ quốc không ai khác chính là
những người dân nơi đây.
Buổi sáng
trở dậy nhìn lá cờ đỏ bay phần phật trong màn sương mù đặc quánh như sữa trước
cửa đồn mà lòng tôi cứ rưng rưng. Chỉ huy đồn biên phòng Pha Long bảo tôi: Giữ
dân như giữ đất, bộ đội biên phòng phải dựa vào dân để giữ đất, dân mà bỏ đi thì
khó mà giữ nổi từng thước đất nơi này…
Nằm chênh
vênh trên thượng nguồn sông Chảy, ba xã Pha Long, Dìn Chin và Tả Gia Khâu trừ
ba tháng mùa mưa hầu như quanh năm nơi này thiếu nước.
Trong ba xã
ấy Tả Gia Khâu thiếu nước trầm trọng, do thiếu nước quá nên trụ sở UBND, trạm
xá, trường học rồi đồn biên phòng 231 sau này phải chuyển xuống thôn Pạc Tà nơi
có nguồn nước cách trụ sở cũ hơn 3 km. Mặc dù vậy, nguồn nước ở thôn Pạc Tà
cũng chỉ dồi dào vào mùa mưa, năm nào trời hạn thì phải xuống sông Xanh để thồ nước
lên.
Đồn biên
phòng Tả Gia Khâu nuôi hai con ngựa chỉ dùng để thồ nước từ sông Xanh vào mùa
khô. Từ trên cao nhìn xuống dòng sông Xanh chỉ nhỏ bằng bàn tay.
Để giúp dân
có nước sinh hoạt sống giữ đất trên vùng đất sa mạc hóa giữa lưng chừng núi
cao, Nhà nước đúc cho mỗi hộ hơn chục chum nước để hứng nước mưa từ trên các
mái nhà.
Những chum đựng nước mưa ở Tả Gia Khâu, huyện Mường Khương tỉnh Lào Cai |
Trước đây
nhà lợp cỏ nên nước đỏ quạch như nước vối, bây giờ lợp bằng fibro xi măng nước
trong hơn nhưng nhiều độc hại.
Trên đường
vào thôn Tả Gia Khâu tôi gặp Sùng Seo Lành trên đường đi làm nương, anh dẫn tôi
về nhà mình, bà nội của Lành đã hơn 90 tuổi, đôi mắt mờ đục như nước gạo.
Tôi hỏi cụ ở
đây khô khát thiếu nước như vậy sao không chuyển đi nơi khác? Cụ lắc đầu nhìn
tôi ngơ ngác như người mới từ hành tinh khác tới: Không bỏ đất này đi được đâu,
đời cha, đời ông mình sống ở đây và chết ở đây rồi à…
Sau năm
1997, tôi nhiều lần trở lại Mường Khương, loạt phóng sự: "Đất và người
Mường Khương: Huyền tích về một vùng đất", "Vật vã trên vùng đất
khát", "Pờ Sảo Mìn - nhà thơ của núi rừng", "Mở hang tiền
sử làm kho cất rượu"… khắc họa cuộc sống của những con người trên lưng
chừng núi nơi này.
Tháng
4/1998, tôi lên Đồng Văn được Lầu Dúng Páo dẫn đến nhà cụ Vàng Thị Vềnh, năm ấy
cụ vềnh đã 75 tuổi người dân tộc Lô Lố ở thôn Lô Lố Chải điểm cực Bắc trên bản
đồ Tổ quốc đang giữ một chiếc trống đồng được truyền qua 5 đời.
Cụ Vàng Thị Vềnh thôn Lô Lố Chải bên chiếc trống đồng cha ông truyền lại |
Cụ cho biết
có người từ Hà Nội lên đây trả hơn 300 triệu đồng nhưng gia đình không bán, bởi
đó là báu vật thiêng liêng của người Lô Lố.
Cụ cho biết
thôn Lô Lố Chải được vua ban cho hai chiếc trống đồng, một trống đực và một
trống cái, trống chỉ được đánh lên vào ngày Tết hoặc trong thôn có người chết
và những báo tin khi giặc tới xâm lược.
Tôi nhìn
ngôi nhà trình tường thâm u, tháng tư ở trên núi đang là mùa giáp hạt nhà không
còn một hạt ngô, khi tôi đến thấy cụ đang gọt củ rừng nom giống củ đao riềng ăn
thay cơm nhưng dứt khoát không chịu bán chiếc trống đồng của cha ông để lại.
Tôi rời nhà
cụ Vềnh lên đầu thôn ngồi dưới gốc cây Tung Tống Thá (cây nghiến) cổ thụ nhìn
xuống dòng sông Nho Quế. Đá từ trên sườn núi như muôn ngàn lớp sóng xám lạnh,
những ngôi nhà thấp lè tè của thôn Xéo Lủng nằm giáp biên giới Việt- Trung
khuất lấp giữa rừng đá mênh mông đã mấy lần bị bọn người xấu bên kia tràn sang
đốt phá, đẩy họ lùi sâu vào đất Việt.
Sau mỗi lần
bị đốt phá họ lại trở về dựng lại nhà cửa quyết không bỏ mảnh đất của cha ông.
Những con người ở đây dáng người nào cũng sắt đanh như đá, tựa như cây Tung
Tống Thá dễ sần lên gân guốc bám chặt vào đá núi, đời này nối đời kia giữ gìn
mảnh đất biên cương nơi tận cùng của Tổ quốc.
Phóng sự
"Đồng Văn- nơi Tổ quốc bắt đầu từ đá", "Vời vợi Lũng
Cú" đã ra đời sau khi gặp những con người như thế.
Vượt tứ đại đèo Tây Bắc
Suốt 20 năm
làm ở Báo Nông nghiệp Việt Nam, tôi đã vượt qua không biết bao đèo cao
dốc dựng đến những bản làng heo hút trong mây, gặp những con người hiền như đất
và từng qua tứ đại đèo Tây Bắc.
Mã Pì Lèng,
tiếng Quan Hỏa nghĩa là đèo dốc đứng như mặt ngựa. Tôi đã hai lần qua Mã Pì
Lèng, lần thứ nhất vào tháng 4/1998, lần thứ hai tháng 3/2002. Đây là con đèo
hiểm trở bậc nhất Hà Giang nối hai huyện Mèo Vạc và Đồng Văn chạy dọc dòng sông
Nho Quế.
Con đường
được làm trong 6 năm từ năm 1959 đến năm 1965 do mấy vạn thanh niên xung phong
ở 8 tỉnh miền Bắc xây dựng. Đèo Mã Pì Lèng do đội thanh niên cảm tử buộc dây
treo mình trên vách núi đục từng tảng đá mở đường trong 11 tháng trời. Nhiều người
đã bỏ mạng khi mở con đường này vì đứt dây và đá lăn trúng người.
Lần đầu tiên
vượt Mã Pì Lèng tôi không dám nhìn xuống dòng sông Nho Quế sâu hun hút dưới
chân vì chóng mặt. Loạt phóng sự: "Chuyện tình Khau Vai-huyền tích về
một mối tình", "Dinh thự của những “ông vua” miền núi phía
Bắc", "Trăn trở Hoàng Su Phì", "Miền đất cây vỏ vàng"…
đã ra đời từ hai lần vượt Mã Pí Lèng.
Tháng
3/1999, từ thị xã Sơn La tôi lên Tuần Giáo vượt đèo Pha Đin huyền thoại trong
chiến dịch Điện Biên Phủ. Con đèo chạy qua các đỉnh núi điệp trùng, từ trên
đỉnh đèo nhìn xuống Mường Quài ruộng bậc thang vân vi như vân trên bàn tay
người.
Tác giả bên chiếc xe tăng trên đồi A1 |
Tháng 3 gió
Lào ngùn ngụt thổi, đi xe máy trên con đèo này cứ biêng biêng như chực lao
xuống vực. Đèo Pha Đin đã ghi hàng vạn dấu chân bộ đội, thanh niên xung phong
và công nhân hỏa tuyến để làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu
chấn động địa cầu”.
Trong trường
ca "Quam Tô Mương - Chuyện kể bản mường" của người Thái đen kể
rằng: Nơi cách nay 7 thế kỷ những người con của Tạo Xuông, Tạo Ngân từ Mường Lò
(Yên Bái) vượt đèo Khau Phạ và sông Đà qua đèo Pha Đin để mở mang đất Mường
Thanh.
Đặt chân lên
đèo Pha Đin đã cho tôi có cảm hứng sau này viết loạt phóng sự: "Cuộc
thiên di vĩ đại của người Thái đen", "Mường Thanh miên man ký",
"Bí ẩn sông Đà", "Thị xã đợi ngày chìm xuống thủy cung",
"Cuối trời Tây Bắc có Lai Châu" …
Đèo Khau
Phạ, tiếng Thái là Sừng trời, cũng có nghĩa là Cổng trời, còn tiếng Mông là Đở
chua - đỉnh núi nhiều gió. Khau Phạ nằm trên quốc lộ 32 nối Yên Bái
với Lai Châu. Tôi không nhớ mình đã vượt qua Khau Phạ bao nhiêu lần, nhiều lắm
không thể nhớ hết.
Khau Phạ mùa cấy cày |
Khau Phạ
quanh năm mây mù, vào mùa đông sương mù đặc quánh như sữa, xe phải bật đèn pha
mới nhận ra đường, chỉ cần lạng tay lái là lao xuống vực mất mạng như chơi.
Vào mùa nước
đổ hay mùa gặt từ trên đèo nhìn xuống thung lũng Tú Lệ như một bức tranh ruộng
bậc thang rực rỡ đã làm mê mẩn bao nghệ sĩ nhiếp ảnh và hàng ngàn dân phượt kéo
lên đây mỗi năm.
Con đèo đã
cho tôi cảm hứng viết loạt phóng sự: "Mùa gặt ở Cổng trời",
"Nơi cất lên tiếng hú của loài vượn đen", "Người chăn dê ở Cổng
trời", "Kho báu giữa đại ngàn"…
Người chăn dê trên Cổng trời |
Khi biết tôi
là tác giả bài phóng sự "Ngút ngàn rừng thông nơi cổng trời Tây
Bắc", Phạm Tiến Lâm - Trưởng phòng Kinh tế huyện Mù Cang Chải cứ ôm
lấy tôi nước mắt chan hòa: Chú ơi, mẹ cháu là Phạm Thị Tiến nhân vật trong bài
phóng sự của chú đã hy sinh trong trận cháy rừng năm ấy, qua bài viết của chú
cháu như thấy hình ảnh của mẹ hiện lên trong biển lửa cháy rừng. Cháu cất giữ
tờ báo như là kỷ vật thiêng liêng của mẹ…
Đèo Ô Quy
Hồ, con đèo cao nhất Đông Dương nối Lào Cai với Lai Châu, tôi cũng không nhớ
mình đã vượt qua Ô Quy Hồ bao nhiêu lần. Tại đây tôi gặp ông Trần Ngọc Lâm,
người từng sống nhiều năm trên đỉnh đèo trồng cây thuốc trên núi Hoàng Liên
chữa bệnh ung thư.
Báo Tết âm
lịch 2007 tôi viết phóng sự "Người tự chữa bệnh ung thư theo bài thuốc
của nhà sư Tây Tạng". Tổng Biên tập Lê Nam Sơn gọi điện cho tôi cười
khành khạch: Chú mày “bịa” kinh quá, nhưng mà hay… Còn Phó Tổng Biên tập Trịnh
Bá Ninh thì bảo: Nếu còn tư liệu ông viết thêm 2 trang nữa để báo thêm hấp dẫn…
Chuyện về
ông Lâm tôi không dám “bịa” chút nào, đó là chuyện rất thật. Khi báo đăng,
nhiều người đã gọi điện cho tôi xin địa chỉ của ông Lâm, trong số họ có nhà thơ
Đỗ Trung Lai.
Trong loạt
phóng sự "Những chuyện lạ vùng cao Tây Bắc", tôi dự kiến viết
10 bài khi đi nửa vòng cung Tây Bắc nhưng mới viết được 7 bài: "Những
chàng Robinson ở Cổng trời", "Nô lệ của nàng A Phiền",
"Ngày cúng ma bản", "Ngôi nhà tổ ong”, "Chuyện tình bi
thiết ở hai dòng thác", "Thực hư ma chài", “Người rừng trên núi
Hoàng Liên"… một lần nữa tôi kể về kỳ nhân Trần Ngọc Lâm đào được củ
sâm 800 năm tuổi trên dãy Hoàng Liên và câu chuyện tình của người lính da đen
Tôm mê bơn, người Sênêgan với cô gái Mông có tên là A Mỷ do cựu đồn phó Trạm
Tôn đóng trên đỉnh đèo Ô Quy Hồ Giăng Ri Nhong kể lại cho ông trong lần lên
thăm lại Điện Biên Phủ sau 50 năm chiến thắng.
Nhà báo Thái Sinh (trái) và người rừng Trần Ngọc Lâm trong VQG Hoàng Liên ở độ cao 2.500m |
Nhưng lãnh
đạo báo điện lên bảo tôi: Loạt phóng sự Những chuyện lạ vùng cao Tây Bắc
dừng lại ở kỳ 7 nhé, để dành đất cho phóng viên khác...
Những chuyện vui đáng nhớ
Trong cuộc
đời làm báo của mình có rất nhiều chuyện vui đáng nhớ, tôi xin kể ra đây vài
chuyện.
Tháng
12/1996, sau khi được người dân phản ánh về việc nhà máy tuyển quặng Apatit xả
chất thải xuống dòng suối Nhuần khiến cuộc sống của người dân xã Phú Nhuận,
huyện Bảo Thắng điêu đứng. Người dân và chính quyền địa phương gửi rất nhiều
đơn và văn bản đi khắp nơi nhưng bặt vô âm tín.
Tôi viết
phóng sự điều tra "Nhà máy tuyển quặng Apatit xả chất thải vào sự sống
người nông dân", đăng hai số báo. Sau khi báo đăng, Bộ Khoa học-Công
nghệ và Môi trường, Bộ Công nghiệp nặng, UBND tỉnh Lào Cai…đã có văn bản yêu
cầu Cy Apatit Việt Nam chấm dứt xả thải ra môi trường.
TGĐ Hoàng
Văn Liễu cử người đến thương lượng với tôi không tiếp tục viết nữa và có công
văn gửi Báo Nông nghiệp Việt Nam cam kết chấm dứt xả thải trong thời
gian sớm nhất sau khi nâng cấp hệ thống xả thải.
Vài tháng
sau tôi xuống Bảo Thắng làm việc, ông Doãn Văn Hưởng khi đó là Chủ tịch UBND
huyện, nay là Chủ tịch tỉnh Lào Cai cảm ơn Báo Nông nghiệp Việt Nam đã
có bài viết gây áp lực để nhà máy tuyển chấm dứt xả thải. Ông chỉ thị cho Văn
phòng thưởng nóng cho tôi… 200.000đ gọi là “nhuận bút nhân dân”.
Trận lũ quét
lịch sử bất ngờ đổ xuống Cát Thịnh vào đêm 28/9/2005 đã cuốn trôi 26 ngôi nhà,
làm sập đổ hoàn toàn 8 ngôi nhà, khiến 31 người chết và mất tích.
Sáng hôm sau
tôi tức tốc theo Phó Ban chỉ huy phòng chống lụt bão Vũ Xuân Sáng, nay là GĐ Sở
Kế hoạch & Đầu tư vào ngay vùng lũ.
Thị tứ Ba
Khe trung tâm xã Cát Thịnh tan hoang sau trận lũ quét, người khóc như ri vì mất
người vì sập đổ nhà trước dòng suối đục ngàu đất đỏ.
Sau khi chụp
ảnh, gặp gỡ các nhân chứng… tôi thuê xe ôm quay về Yên Bái khi đó vào khoảng 4
giờ chiều. Trút bộ quần áo ướt sũng tôi ngồi vào bàn viết liên tục đến 7 giờ
tối thì viết xong gửi ngay về tòa soạn.
Nguyễn Hải,
phóng viên Báo Tuổi trẻ điện cho tôi năn nỉ: Anh viết thêm cho báo em
một bài, trận lũ quét này Tuổi trẻ không thể bỏ qua được…Tôi lại phải
ngồi vào bàn viết tiếp, đến 9 giờ đêm mới viết xong, Nguyễn Hải nhận được bài
viết thì mừng lắm.
Sáng 30/9,
Báo Nông nghiệp Việt Nam đăng phóng sự "Cát Thịnh đêm kinh hoàng
lũ quét", Báo Tuổi trẻ đăng tràn trang nhất bức ảnh và bài viết "Lũ
quét đổ xuống Ba Khe".
Khoảng 10
giờ sáng Hải điện cho tôi: Bài viết xúc động quá, 8 giờ sáng nay có một bạn đọc
ở TP. Hồ Chí Minh mang tới tòa soạn 20 triệu đồng nhờ Tuổi trẻ chuyển
tới những gia đình nạn nhân trận lũ quét. Cảm ơn anh rất nhiều…
Ông Hoàng
Hữu Tê sinh năm 1945 dân tộc Tày xã Cát Thịnh, huyện Văn Chấn nhập ngũ tháng
4/1968 chiến đấu ở mặt trận phía Nam. Tháng 4/1970, ông Tê bị thương: Vỡ mắt
phải, vỡ xương hốc mắt, cuối năm 1970 ông được xuất ngũ về địa phương, sau một
thời gian ngắn tính tình của ông Tê trở nên không bình thường.
Ông nói năng
lảm nhảm, chửi mắng vợ con, quát tháo cha mẹ, phá phách nhà cửa, bỏ nhà đi lang
thang vào rừng không biết đường về. Tình trạng sức khoẻ của ông Tê ngày càng
xấu đi, cộng với hoàn cảnh kinh tế của gia đình vô cùng khó khăn nên bệnh tật
của ông càng trầm trọng.
Ông Tê được
chuyển về Bệnh viện Tâm thần TW điều trị. Ngày 11/2/1976, ông Tê trút hơi thở
cuối cùng tại bệnh viện bên cạnh không người thân thích. Bệnh án ghi ông Tê tử
vong do: Rối loạn tâm thần sau chấn thương sọ não. Chết trong tình trạng suy
kiệt.
Gia đình ông
Tê gõ cửa khắp các cơ quan đề nghị được công nhận là liệt sĩ, nhưng tất cả đều
im lặng. Sau khi xem hồ sơ và tiếp cận các nhân chứng tôi viết bài "Ông
Hoàng Hữu Tê bao giờ được công nhận là liệt sĩ?".
Tác giả thắp hương trong nghĩa trang liệt sĩ Điện Biên Phủ
Sau khi báo
đăng tôi gửi cho bà Phạm Thị Thanh Trà khi đó đang là Phó Chủ tịch tỉnh Yên
Bái, nay đảm nhiệm chức Chủ tịch. Bà Trà xem bài báo đã ký công văn yêu cầu Sở
Lao động - Thương binh, xã hội hoàn tất hồ sơ, thủ tục gửi Bộ Lao động-Thương
binh và Xã hội xem xét giải quyết. Mấy tháng sau gia đình ông Tê nhận được
quyết định công nhận liệt sĩ.
Tôi điện cho
con trai ông Tê nhờ thắp giùm cho tôi mấy nén nhang để tri ân người đã khuất,
bởi sự hy sinh của ông Tê đối với Tổ quốc còn lớn hơn trang viết của tôi rất
nhiều.
Và chuyện buồn không thể quên
Năm 2011,
tôi và Hoàng Anh viết loạt bài "Cận cảnh công nghệ chế biến chè
bẩn", vạch trần những thủ đoạn làm chè bẩn từ trộn bột sắn, bùn, phân
bón đến xi măng vào chè của một số Cty và nhiều nhóm hộ gia đình, khiến chè
Việt Nam bị mang tiếng xấu trên thị trường quốc tế.
Tôi đóng góp
2 bài "Vựa chè thành "lò" chế chè bẩn", "Yên
Bái quyết tâm đánh bại chè bẩn". Sau loạt bài đó, Chi cục Quản lý thị
trường Yên Bái đã bắt gần 20 tấn chè bẩn của một số Cty và cơ sở chế biến.
Tôi nhận
được một số tin nhắn từ các số máy lạ chửi bới, đe dọa buộc tôi phải nhờ Đại tá
Đặng Trần Chiêu, nay là Thiếu tướng, Giám đốc Công An tỉnh Yên Bái điều tra chủ
nhân của những số máy đó. Sau một tuần ông Chiêu cho biết đó là sim rác không
thể biết người nhắn tin là ai.
Vài lời tri ân
Tôi chưa
thống kê suốt 20 năm làm Báo Nông nghiệp Việt Nam, bàn chân đi dọc ngang
khắp lưng trời Tây Bắc. Tây Bắc đã truyền cho tôi rất nhiều cảm hứng để viết
khoảng 400 phóng sự, bút ký, ký sự, ghi chép và trên 2.000 bài báo đủ các thể
loại: Phản ánh, điều tra, phỏng vấn cùng mấy ngàn bức ảnh về những vùng đất mà
tôi đã đi qua.
Nhà báo
Quách Trần Lâm, nhiều năm làm Trưởng ban Trị sự vui vẻ gọi tôi là “thằng
Mường”, còn Trọng Đảm - Trưởng ban Thư ký đặt cho tôi biệt danh “Ma Tây Bắc”,
đồng nghiệp gọi tôi “nhà báo cắm bản”…
Trong số báo
kỷ niệm 70 năm ra đời Báo Nông nghiệp Việt Nam, tôi xin có vài tri ân
tới nguyên Tổng Biên tập Lê Nam Sơn, Phó Tổng Biên tập Trịnh Bá Ninh,
các đồng nghiệp và bạn đọc Báo Nông nghiệp Việt Nam đã khuyến khích,
động viên tôi đi và viết.
Trên hết,
xin cảm ơn ĐẤT và NGƯỜI Tây Bắc đã cho tôi nguồn cảm hứng bất tận để viết hàng
trăm phóng sự, bút ký và mấy ngàn bài báo. Cho đến hôm nay Tây Bắc đối với tôi
luôn là vùng đất bí ẩn mà tôi chưa thể khám phá hết. (Thái Sinh)
Nguồn: NNVN
Nhận xét