3742. “Cầu quan”, tượng đài và sự vô trách nhiệm
“Cầu quan”, tượng đài và sự vô trách nhiệm
KD: Đây là bài viết cho mục Ấn tượng
trong tuần, đăng vào sáng thứ 07 hàng tuần. Bài đã được ký duyệt nhưng đến
phút cuối cùng lại bị bóc gỡ, vì lý do “nhạy cảm”. Cho dù ai cũng công nhận
bài viết hoàn toàn đúng.
Mỗi
tuần, với mình, mỗi bài viết là “con tằm rút ruột”, mệt bơ phờ, bạc mặt vì
ngòi bút.
Thề
với Trời Đất, từ thuở bao cấp, đói nghèo kinh khủng, mình chưa bao giờ viết
báo với mục đích kiếm tiền. Mình yêu nghề báo như một sự tự nguyện máu thịt.
Cả đời này, mình không thèm quỵ lụy bất cứ kẻ quyền lực nào, bất cứ đồng tiền
nào nếu không phải được làm ra bằng đôi bàn tay lao động và tư cách tử tế. Để
có thể nhìn đời bằng cái nhìn thẳng và ngẩng cao đầu mà sống.
Nhưng
nghề báo nước Việt này, sao mà cay đắng!
Hi…hi…
hai chữ “tự do”.
Kỳ
Duyên
|
PNTB: Kim Dung/ Kỳ Duyên là một nữ nhà báo bản lĩnh, ngòi bút ngay thẳng... Chị thường xuyên có những bài bình luận mang tính phản biện và xây dựng sâu sắc, thu hút độc giả trên Tuần Việt Nam. Thiết nghĩ báo chí ngày nay không có những bài như thế, dù chả biết có ăn thua gì không nhưng ít nhất nó tạo được chút niềm tin cho báo chí chính thống, và cơ quan lãnh đạo của nó. Nó không 'nhạt phèo' như những bài báo mới đọc cái title đã nhìn thấy sự sến sáo, nịnh bợ, tô son vẽ phấn,...nên độc giả thường ưu tiên... 'bỏ qua' tắp lự. Ngòi bút của KD 'chông chênh' mà chắc chắn. Ấy thế mà bài này lại bị "gỡ". Khổ!
Từ câu chuyện “cầu quan” đến xây các tượng đài, tưởng là “vì dân”
nhưng ở một góc độ khác, thực ra, là sự vô trách nhiệm với giang sơn, xã tắc,
vào lúc vận mệnh quốc gia nhiều thách thức!
Cái cây cầu treo có tên Khe Tây, vừa được khánh thành, nằm ở xóm
06, xã Sơn Thọ, huyện Vũ Quang (Hà Tĩnh) có lẽ bỗng ngơ ngác không hiểu sao
mình trở thành nổi tiếng và “quý tộc” vậy? Bởi nhiều người dân ở vùng miền núi
rừng heo hút này gọi đó là “cầu quan”
Từ cầu dân thành “cầu quan”
Tưởng là cầu của dân sinh Ai ngờ xây để mỗi mình quan đi (PNTB) |
Gọi là “cầu quan” bởi khởi đầu, đó là “cầu dân”, nằm trong Đề án
xây dựng 186 chiếc cầu treo dân sinh ở 28 tỉnh miền núi phía Bắc, miền Trung và
Tây Nguyên của Bộ Giao thông Vận tải.
Ý nghĩa nhân sinh nằm ngay trong cái tên gọi – cầu treo dân sinh.
Vậy mà khi về với xã Sơn Thọ, nó biến thành “cầu quan”.
“Cầu quan” bởi lẽ ra phải phục vụ cho 42 hộ dân như trong đề án,
thì thực chất khi khánh thành xong, cầu chỉ phục vụ mỗi… hai hộ dân. Gía trị
đầu tư chiếc cầu treo này không nhỏ- khoảng 3,5 tỉ đồng, mà oái oăm, là theo
nhận định của p/v (TPO, ngày 06/8) cầu treo dân sinh được xây dựng ngay gần
chiếc cầu liên thôn kiên cố (có tên là cầu Gãy) – đi thẳng vào ngõ nhà ông Chủ
tịch xã Sơn Thọ, huyện Vũ Quang (Hà Tĩnh).
Khỏi phải nói cây cầu treo bỗng bị… treo lơ lửng trong sự quan
sát, dòm ngó và bàn luận ồn ào của báo chí, các trang mạng XH ra sao. Bởi sự
hiện diện của nó là sự lãng phí, bất công đã đành. Nó còn chứa đựng cả sự quan
liêu, dối trá, vô trách nhiệm của những vị cán bộ… có trách nhiệm các cấp, xung
quanh cây cầu này.
Ngay lập tức, hình thành nên hai bên cây cầu treo là sự đối đáp, phản
biện lẫn nhau giữa “hai phe”. Một bên là Tổng cục Đường bộ VN, cơ quan chịu
trách nhiệm về cây cầu, một bên là dư luận báo chí. Khẳng định và hoài nghi.
Thanh minh và mổ xẻ. Tự khen và chê trách. Hệt “hát đối” quan họ Bắc Ninh. Vui
phết!
Phía bảo vệ vị trí cây cầu, ở đây là ông Phạm Quang Vinh, Phó Tổng
cục trưởng Tổng cục Đường bộ VN khẳng định, không có chuyện xây cầu treo cho
hai hộ dân, báo chí phản ánh chưa đúng thực tế. Theo ông này, vị trí xây dựng
cầu treo Khe Tây là để phục vụ việc đi lại, sản xuất của cụm dân cư sinh sống
nằm bên sườn núi Khe Tây thuộc thôn 06 của xã Sơn Thọ. Đặc biệt, lưu lượng người qua lại khoảng 500
lượt/ngày đêm, theo biên bản làm việc ngày 1/11/2014 giữa đơn vị Tư vấn thiết
kế với đại diện chính quyền địa phương (báo
Giao thông, ngày 08/8).
Cũng ngay lập tức nhiều tờ báo như Tiền Phong, VietNamNet, Bảo vệ
Pháp luật có phóng viên về tận nơi chiếc
cầu là nơi hò hẹn của… đôi bên để tận mắt nhìn, tận tai nghe. Và
những nhìn nhận của báo chí lại khác hẳn.
Cán bộ địa chính xã Sơn Thọ dùng dao phát rừng để tìm người dân… qua cầu treo Khe Tây (Nguồn: VNN) |
Báo VietNamNet, ngày 12/8 đã đăng khá nhiều bức ảnh và thông tin
để khẳng định, muốn đi qua cầu treo dân sinh Khe Tây, người dân phải đi đường
rừng hơn 01km, vượt qua 02 cái khe. Trong khi, chỉ cần đi theo con đường bê
tông rộng rãi chừng 500m là đến cầu Gãy (cách cầu treo chừng 200m). Vì thế, dù
đã đưa vào sử dụng 02 tháng nay nhưng chẳng mấy ai qua cầu. Đường dẫn tới cầu
treo chỉ hợp cho những ai muốn có sở thích “trèo đèo lội suối” (?). Đặc biệt
nhất, trong số hơn 20 hộ dân mang tiếng được “hưởng lợi” từ việc xây dựng cầu
treo, nhiều người bất ngờ và không biết chuyện xây cầu để phục vụ họ!
Hãy nghe những người dân thuộc diện “qua cầu” nói những lời không
thể gió bay. Ông Nguyễn
Văn Hoàn: Lâu nay gia đình tôi
đi qua cầu Gãy. Việc xây cầu treo, chúng tôi không biết“- ông khẳng định
trước mặt lãnh đạo Sở GTVT, Ban QLDA, UBND xã và các phóng viên. Rồi, không nhẽ 19 hộ dân ở đây vượt 02
cái khe, leo lên rừng để ra cầu treo của ông Chủ tịch chọn điểm xây dựng?
Chả lẽ cây cầu treo và ông Chủ tịch xã khôn lỏi cũng vẫn thích
đánh đố “tinh thần vượt khó” của người dân nghèo khổ?
Bà vợ ông Nguyễn Hữu Hòa, cũng thuộc đối tượng “qua cầu”: Khi xây cầu xong mới biết cầu làm
vào nhà lãnh đạo xã, người dân không hề được cán bộ giới thiệu hoặc ký tá gì
liên quan đến cái cầu treo này.
Còn báo Tiền Phong, ngày 11/8 gọi thẳng tên vụ việc là “sự gian
dối trắng trợn”, khi cho biết, con đường đất được đào men theo núi hơn 200m từ
nhà ông Chủ tịch xã Sơn Thọ đi vào núi là để “che mắt” các đoàn kiểm tra.
Đựơc biết mới đây, Phó TT Hoàng Trung Hải yêu cầu Bộ GTVT khẩn
trương kiểm tra, rà soát lại dự án, báo cáo TTCP trước ngày 20/8 tới.
Chưa biết việc điều tra kết luận của ngành chủ quản sẽ ra sao. Cho
dù là biện hộ, cây cầu bắc cho tương lai, cho mô hình nông thôn mới của 42 hộ
dân sẽ sinh nở nay mai (dự kiến), nhưng những thông tin chưa đầy đủ trên báo
chí đã phác thảo sự quan liêu, nói dối và cả vô trách nhiệm của cán bộ các cấp
từ Tổng cục Đường bộ VN, đến Ban QLDA xung quanh một cây cầu treo vô tội. Liệu
ở đây giữa ông Chủ tịch xã và Ban QLDA cây cầu có sự “thống nhất” nào không?
Quan liêu,
bởi trong báo cáo tổng cục này chỉ “dựa theo” biên bản làm việc của đại diện
chính quyền địa phương, mà khẳng định lưu lượng tới 500 lượt người/ ngày đêm.
Chính quyền địa phương ở đây, cuối cùng, lại vẫn là ông Chủ tịch xã, hộ gia
đình được thụ hưởng cây cầu Khe Tây. Từ sự quan liêu đến dối trá hóa ra chỉ
mỏng manh như một tờ giấy làm… biên bản.
Nhưng sự quan liêu khi phải cọ sát với thực tiễn mới làm tóe loe
những điều hài hước. Theo VietNamNet, ngày 13/8, bản thân ông Phạm Quang Vinh,
Phó TCT Tổng cục Đường bộ, thừa nhận với báo chí, dù trực tiếp vào khảo sát
hiện trường hai lần nhưng ‘chỉ thẩm định vị trí đặt mố cầu; không tham gia thẩm
định về mặt kinh tế – xã hội’.
Còn ông Bùi Đức Đại, Phó GĐ sở GTVT Hà Tĩnh khi dẫn đầu một đoàn
kiểm tra, đã không thể đi hết con đường mà theo giới thiệu của ông Nguyễn Đình
Dũng, Phó CT
xã Sơn Thọ là ‘người dân
thường xuyên đi để ra cầu
treo”. Bởi, nếu đi con đường ấy, phải vượt qua nhiều đồi núi và 02 khe suối.
Dối trá, bởi
ông Giám đốc Ban QLDA 3 (Tổng cục Đường bộ VN) còn phản pháo báo chí một cách
không biết ngượng khi khẳng định bằng một thông tin nhào nặn, rằng “tất cả
đều có giấy tờ và chứng nhận của
từng hộ dân”. Cũng theo VietNamNet ngày 13/8 mới đây, trong bản danh sách
có 42 hộ dân được hưởng lợi từ cầu treo dân sinh Khe Tây được UBND xã Sơn Thọ
gửi cho Tổng cục Đường bộ VN lại được lập vào ngày… 31/7/2015. Tức là sau khi
chiếc cầu đã xong (tháng 6/2015), báo chí đã đưa tin, phản ánh. Và 42 chữ ký
này nét bút rất giống nhau (?).
Vô trách nhiệm,
bởi theo sự thú nhận của ông Phó CT UBND huyện Vũ Quang, nếu nói tính cấp bách thì
chỗ này phải thừa nhận là chưa. Tiền đề xuất, nếu huyện đầu tư, câu chuyện hoàn
toàn khác. Họ giúp thì mình nhận.
Hóa ra, chỉ vì là tiền “chùa” nên có quyền… nói dối và lãng phí?
Cầu treo Khe Tây chỉ là một trong số hàng trăm cây cầu dân sinh đã
và sẽ được xây dựng. Với kiểu làm việc quan liêu, dối trá và vô trách nhiệm
này, nay mai, sẽ còn bao nhiều cây “cầu quan” ra đời?
Làm suy yếu vận mệnh quốc gia?
Trước đó, có một tỉnh miền núi cao đặc biệt khó khăn cũng đã trở
nên nổi tiếng trong cả nước, vì độ “chơi sang”, gây ra luồng dư chấn XH rộng
lớn, nhiều phê phán hơn ủng hộ, nhiều hoài nghi hơn chia sẻ, kéo dài đến tận
giờ. Đó là tỉnh miền núi cao Sơn
La.
Không gọi là “chơi sang” sao được khi tỉnh này tung ra chủ trương
xây cái gọi là cụm công trình quảng trường- tượng đài với một con số khủng – 1400 tỷ đồng.
Xây tượng đài là việc của nhiều quốc gia vẫn thường làm. Để tôn
vinh công lao dựng nước, giữ nước của những con người vĩ đại. Với những quốc
gia văn minh, phát triển, tượng đài lãnh tụ được tạc tài hoa như những công
trình nghệ thuật, lấp lánh tính thẩm mỹ, mỹ thuật, trở thành những địa danh văn
hóa, thực sự thu hút khách du lịch năm châu bốn biển, thành niềm kiêu hãnh của
quốc gia đó. Các tượng đài trở thành vĩnh cửu với thời gian, góp vào nền tảng
văn hóa xứ sở, thành niềm tự hào của nghệ thuật điêu khắc, phản chiếu tư duy và
tầng nền văn hóa quốc gia.
Vấn đề là trình độ điêu khắc, kiến trúc, cách làm và hoàn cảnh XH
phát triển ra sao, có tương đồng hay không, có vì dân hay không?
Nếu so với những tiêu chí đó thì Sơn La là một tỉnh miền núi cao
khó khăn vào loại nhất nhì khu vực Tây bắc. Theo Tuần Việt Nam, ngày 07/8, toàn
tỉnh có 11 huyện và 01 thành phố thì có tới 05/62 huyện nghèo nhất nước. Tính
đến hết năm 2013, còn gần 69.000 hộ nghèo, chiếm 27% tổng số hộ; hơn 30.000 hộ
cận nghèo, chiếm gần 12% tổng số hộ. Năm 2014 có hơn 31.000 hộ với hơn 141.000
nhân khẩu thiếu đói. Nếu đối chiếu con số tiền tỷ sẽ được đầu tư để xây quảng trường
tượng đài với con số dân thiếu đói, thì sự “chơi sang” có gì đó không phải đạo.
Người viết bài này từng lên công tác Sơn La, điều tra về GD vùng
Tây bắc, nên quá hiểu cái nghèo, cái cực của trẻ em, người dân miền núi cao này
ra sao. Thật có lý khi ông Tráng A Pao – nguyên CT Hội đồng Dân tộc Quốc hội
khi trả lời báo Dân trí, ngày 05/8 cho rằng, nếu làm tượng đài to quá sẽ lãng
phí và không hợp với lòng Bác vì đồng bào dân tộc còn rất nghèo khổ. Không phải
cứ xây tượng đài thật lớn là thể hiện lòng tôn kính. Vì nhiều nơi, nhiều vùng
Bác Hồ chưa đặt chân đến, nhưng tại sao nhân dân, đồng bào vẫn luôn nghĩ, nhớ
về Bác?
Nói cho cùng, tượng đài được tạc vào tâm thức của người dân mới là
vĩnh cửu, cho dù mọi biến thiên của trời đất, mọi ấm lạnh, nắng mưa lịch sử.
Sự ồn ào của XH không chỉ vì Sơn La còn quá nghèo, tiêu tiền lại vung tay quá trán, mà còn ở chỗ
này, dư luận XH hoài nghi về tính thẩm mỹ của những tượng đài xây nhan nhản ở
các địa phương từ trước đến nay.
Với một nền kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc, tạc tượng thực chất
còn quá mỏng, nghèo nàn, ít bản sắc dân tộc, các tượng đài ở nước Việt từ xưa
đến nay mang nặng tính chất tượng đài cổ
động, cho mục đích chính trị, tuyên truyền vận động, nên rất ít tính nghệ
thuật, thẩm mỹ. Do nghèo nàn về sức tưởng tượng, cảm hứng sáng tạo trong nghệ
thuật điêu khắc, hầu hết các tượng đài như cùng đúc… một lò, rập khuôn cứng
nhắc, khiến người xem chẳng mấy xúc động, thấm thía về vẻ đẹp cùng linh hồn
tượng đài.
Tượng đài cụ Hồ ở Cần Thơ. Nguồn tiin.vn |
Chưa nói đến sự vô lương tâm của những kẻ rút ruột, ăn cắp khiến
tượng đài lớn và được mong đợi như tượng đài Điện Biên Phủ, trở nên “đau nhức”
trong con mắt người xem. Chính vì thế cái giá hàng trăm, hàng nghìn tỷ đồng
thực chất sẽ còn “đắt” hơn nữa, nếu so với chất lượng công trình, điêu khắc,
chất lượng nghệ thuật.
Mặt khác, nếu nói xuất phát từ nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân
dân thì xét cho công bằng, từ trước đến nay chưa có địa phương nào, kể cả Sơn
La, đưa ra được kết quả điều tra mang tính XH học về nguyện vọng, nhân dân cần
có tượng đài – một tiêu chí tối thiểu, thể hiện mục đích “vì dân”. Không thể
chỉ dựa vào câu nói chung chung của một vài vị quan chức đại diện là… xong om!
Nói điều này, bởi ở các quốc gia văn minh có nền quản trị công
khai minh bạch, thì việc “vì dân” nó rất cụ thể, sinh động, và rạch ròi.
Bởi họ rất ý thức không có nhân dân lấy đâu ra dân tộc? Lấy đâu ra
những sự hy sinh vô hạn gìn giữ chủ quyền quốc gia và xây dựng đất nước?
Tỷ như ở Thụy Sĩ, Hội đồng t/p Bern đã phải làm một cuộc trưng cầu dân ý xem
dân có đồng tình xây dựng quảng trưởng t/p không? Chỉ khi 62% dân t/p OK, chính
quyền mới xắn tay vào cuộc (Tuần Việt Nam , ngày 07/8)
Tỷ như ở nước Mỹ, từ tượng đài George Washington, vị tổng thống
đầu tiên, cho đến nhà tưởng niệm Abraham Lincoln và Thomas Jefferson, một tổng
thống nổi danh trong nội chiến, một tổng thống viết Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ,
cho đến tượng đài Martin Luther King, người hoạt động nhân quyền, cho đến khu
tưởng niệm vị tổng thống ngồi xe lăn Franklin Delano Roosevelt… tất cả đều do
tiền của tư nhân, của người dân tự nguyện đóng góp. Nhà nước chỉ cấp cho đất và
giấy phép xây dựng, mà không hề dùng tới ngân sách, vì đó là tiền thuế của
người dân Mỹ (Tuần Việt Nam ,
ngày 11/8).
Nhưng ngay cả khi các tiêu chí về điêu khắc, nghệ thuật kiến trúc
đáp ứng yêu cầu, thì một điều kiện cốt yếu nhất là tượng đài đó có tương đồng
với hoàn cảnh kinh tế XH không? Và có tạo nên sức mạnh hay góp phần làm suy yếu
nội lực quốc gia? Câu chuyện của nước Nhật Bản vào thế kỷ xa xưa (15-17) với
những tham vọng xây dựng tượng đài, chùa chiền lộng lẫy, nguy nga, đã làm cạn kiệt nguồn lực đáng lẽ
phải dành cho củng cố lực lượng phòng vệ, khoan thư sức dân và đầu tư cho nguồn nhân lực,
liệu có là bài học đáng “giật mình”.
Và nếu đặt chủ trương quảng trường - tượng đài khủng của Sơn La hàng nghìn tỷ đồng, tiếp
theo đó, là 58 địa phương cũng đang rậm rịch theo con đường mòn ấy của Sơn
La, trong lúc nợ công tính theo đầu người, tỷ lệ bội chi đều cao hơn cùng thời
điểm năm trước. Trong lúc ngân khố quốc gia khó khăn, Bộ Tài chính vừa đề xuất
vay Ngân hàng Nhà nước 30000 tỷ đồng để bù đắp cho việc bội chi ngân sách.
Trong lúc Biển Đông, biên giới luôn đứng trước những thách thức về chủ quyền
đất nước…, thì việc tốn hàng trăm, nghìn tỷ đồng xây đủ kiểu tượng đài “cổ
động” liệu có làm cho các quan chức các địa phương “động lòng” điều gì không?
Từ câu chuyện “cầu quan” đến xây các tượng đài, tưởng là “vì dân”
nhưng ở một góc độ khác, thực ra, là sự vô trách nhiệm với giang sơn, xã tắc,
vào lúc vận mệnh quốc gia nhiều thách thức!
K. D.
Nguồn: https://kimdunghn.wordpress.com/2015/08/15/cau-quan-tuong-dai-va-su-vo-trach-nhiem/
Theo BVN
Cánh đồng chữ
Thơ:
Kim Dung/ Kỳ Duyên
Nhà báo Kim Dung/Kỳ Duyên |
Cha không là nông dân
Mẹ không là nông dân
Nhưng đời em lại gắn với cánh đồng
Mẹ không là nông dân
Nhưng đời em lại gắn với cánh đồng
Hạt
chữ gieo xuân hạ thu đông
Thui chột hay nẩy mầm một đời
cực nhọc
Thui chột hay nẩy mầm một đời
cực nhọc
Em
không biết những người thợ cấy cầy
Gieo hạt họ có đau vì đất
Bạc hay mầu mỡ đắng cay hay ngọt mật
Khi còn phải trông trời trông đất trông mây…
Gieo hạt họ có đau vì đất
Bạc hay mầu mỡ đắng cay hay ngọt mật
Khi còn phải trông trời trông đất trông mây…
Em
không biết
nhưng để sống cho đời
vị mồ hôi em mặn mòi nước mắt
nhưng để sống cho đời
vị mồ hôi em mặn mòi nước mắt
Những
tháng năm rạng rỡ thơ ngây
Có đớn đau âm thầm câm lặng
Bát cơm nuôi con đậm mùi mưa nắng
Có đớn đau âm thầm câm lặng
Bát cơm nuôi con đậm mùi mưa nắng
Có
khát khao làm người sao nặng nhọc
Biển cả nhấn chìm cánh buồm trắng
mộng mơ
Biển cả nhấn chìm cánh buồm trắng
mộng mơ
Em
không quỵ bởi yêu thương đón đỡ
Đi qua những tháng năm nghiệt ngã
Trước nhọc nhằn vất vả
Đi qua những tháng năm nghiệt ngã
Trước nhọc nhằn vất vả
Trước
giông gió dữ dằn biển cả
Đắng cay xen lẫn ngọt bùi
Tình Yêu ơi tạ ơn đời cho em gặp
Đắng cay xen lẫn ngọt bùi
Tình Yêu ơi tạ ơn đời cho em gặp
Và
em gọi đó là số phận
Trên cánh đồng muộn xuân
Và em gọi đó là phúc phận
Trên cánh đồng muộn xuân
Và em gọi đó là phúc phận
Giữa
dâu bể nhân quần
Cánh đồng chữ vật vã
tiết thanh tân…
Cánh đồng chữ vật vã
tiết thanh tân…
Nhận xét