3664. Đất Tổ - Tháng Ba gọi về
Đất Tổ - Tháng ba gọi về
Bút ký của Công Thế
VACNE/Thứ Năm,
11/06/2015 | 03:28:00 PM
(VACNE) - Tác giả Công Thế (Hội Văn học - Nghệ thuật tỉnh Lào Cai),
người đã tham gia và đoạt giải Cuộc thi viết về Bảo tồn Cây Di sản Việt Nam vừa
gửi cho Văn phòng Hội bài bút ký về chuyến đi dự Lễ kỷ niệm 5 năm Sự kiên Bảo
tồn Cây Di sản Việt Nam. Xin cảm ơn Tác giả Công Thế và trân trọng giới thiệu
cùng bạn đọc.
Dồn chân trảy hội Tổ hương.
Dù nàng xuân có chùng chình nấn ná đến mấy rồi cũng dần nhạt theo tiết thời gian. Sắc thắm của hoa đào, hoa mai, của hương chanh, hương bưởi Đoan Hùng có nồng nàn đến mấy cuối cùng cũng phải ẩn mình vào xum xuê cành lá, vào những chùm quả xanh biếc đầu cành. Dù nàng xuân có chùng chình nấn ná đến mấy rồi cũng dần nhạt theo tiết thời gian. Sắc thắm của hoa đào, hoa mai, của hương chanh, hương bưởi Đoan Hùng có nồng nàn đến mấy cuối cùng cũng phải ẩn mình vào xum xuê cành lá, vào những chùm quả xanh biếc đầu cành. Gió nồm nam có dùng dằng đi ở mang cái ẩm ướt phả mưa phùn như sữa trắng, tắm táp, tưới mát cho lộc biếc chồi non rồi cũng phải dắt nhau di cư đợi mùa xuân năm tới mà vẫy vùng. Theo phân định tiết mùa quy luật của tạo hóa của lịch mặt trăng tròn khuyết mà xoay vần tiếp nối. Tháng ba Âm lịch qua tiết Thanh Minh, lúa xuân đang thì thiếu nữ đã đỏng đảnh đầu bờ đợi sấm dậy rền vang, đợi những trận mưa rào đầm đìa, quấy đạp mà mở lòng, mở dạ phơi phới phất cờ.
Dù nàng xuân có chùng chình nấn ná đến mấy rồi cũng dần nhạt theo tiết thời gian. Sắc thắm của hoa đào, hoa mai, của hương chanh, hương bưởi Đoan Hùng có nồng nàn đến mấy cuối cùng cũng phải ẩn mình vào xum xuê cành lá, vào những chùm quả xanh biếc đầu cành. Dù nàng xuân có chùng chình nấn ná đến mấy rồi cũng dần nhạt theo tiết thời gian. Sắc thắm của hoa đào, hoa mai, của hương chanh, hương bưởi Đoan Hùng có nồng nàn đến mấy cuối cùng cũng phải ẩn mình vào xum xuê cành lá, vào những chùm quả xanh biếc đầu cành. Gió nồm nam có dùng dằng đi ở mang cái ẩm ướt phả mưa phùn như sữa trắng, tắm táp, tưới mát cho lộc biếc chồi non rồi cũng phải dắt nhau di cư đợi mùa xuân năm tới mà vẫy vùng. Theo phân định tiết mùa quy luật của tạo hóa của lịch mặt trăng tròn khuyết mà xoay vần tiếp nối. Tháng ba Âm lịch qua tiết Thanh Minh, lúa xuân đang thì thiếu nữ đã đỏng đảnh đầu bờ đợi sấm dậy rền vang, đợi những trận mưa rào đầm đìa, quấy đạp mà mở lòng, mở dạ phơi phới phất cờ.
Ở Việt Nam và vài nước phương Đông là theo lịch âm, vận dụng cái quy luật
thiên nhiên vào sản xuất nông nghiệp. Kể cũng nhiều khi thấy rắc rối gây ra
nhầm lẫn. Này nhé, đi làm việc, đi học hành, tầu xe thì tính theo lịch Tây về
nhà tính chuyện dựng vợ gả chồng cho con cái, chuyện giỗ, chạp, ngày sinh tháng
đẻ, chuyện tuổi tác bói toán thì theo âm lịch, chuyện trai gái yêu thương nhau
thì nhẽ đương nhiên phải xem tuổi chúng cầm tinh con gì, mạng gì, có hợp với
nhau không theo thuyết âm dương ngũ hành mà bàn định chuyện trăm năm…. Nói tóm
lại, mọi sinh hoạt thường ngày người ta vẫn lấy lịch âm. Nếp này có lẽ từ thời
Hùng Vương dựng nước Văn Lang lưu truyền cho đến ngày nay. Ngay ngày giỗ Tổ Vua
Hùng dân ta cũng lấy ngày 10/3 âm lịch để lưu truyền cho con cháu đời sau mà
giữ việc đạo hiếu “Dù ai đi ngược về xuôi / Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng mười tháng
ba”…Thế mới biết rằng cha ông ta từ xa xưa đã duy trì phong tục tập quan, giữ
gìn bản sắc Việt. Mặc dù dân tộc ta đã qua bao thời kỳ là thuộc địa ngoại bang
vậy mà bản lĩnh Việt, tâm hồn Việt vẫn không bị Tầu thuần, Tây hóa, không bị
cái lệ thuộc cai trị mà mất đi cái thuần giống nòi.
Chuyến
xuôi về cội vùng đất Phong Châu linh diệu đầy trầm tích này của tôi phải là
người có cơ duyên lắm. Bởi không phải ngẫu nhiên nói đi là đi được ngay đâu, mà
lại về đúng dịp lễ trọng Quốc Giỗ như vầy thì phải là có cơ duyên lắm lắm chứ!
Được đắm vào cái náo nức của vai kề vai, chân sát chân cùng bá tính Bách Việt
nhón chân qua từng bậc đá thiêng liêng lên núi Hùng đền Thượng mà vọng bái đất
trời cầu cho quốc thái dân an, thân vinh, phước hạnh. Hòa vào cái nhộn nhịp của
hội bánh chưng bánh giầy theo dấu tích thời Lang Liêu dâng lên Quốc Mẫu Âu Cơ
kính vọng, của khói nhang, tâm nguyện trang nghiêm kính cẩn dâng hương tưởng
niệm các vị Tiền Đế Tiên Sinh dựng nước từ ngàn xưa.
Tôi men
xuôi theo dòng sông Hồng trên quốc lộ cao tốc Lào Cai – Nội Bài về nơi phát
tích cội nguồn dân tộc, lòng dạ cứ chộn rộn háo hức bao điều, cứ như đứa trẻ
lâu ngày được cha mẹ cho về thăm quê. Mặc dù từ nhỏ chỉ biết quê qua các câu
chuyện của người lớn, của tưởng tượng, của hình dung. Cho nên người ta nói con
người có hiểu biết bao nhiêu cũng chỉ là hữu hạn, nhỏ bé như hạt cát giữa sa
mạc, trong cái thế giới thiên nhiên mênh mông, bao la huyền bí. Dòng sông Mẹ
mùa này hao gầy, mềm mại như dải lụa hồng uốn lượn đồi bờ xanh mướt lúa ngô,
dịu hiền yên ả qua núi đồi, qua làng bản thanh bình êm ấm “Dòng sông đi qua
cánh đồng/ Cánh đồng vàng lên no ấm/ Dòng sông đi qua núi đồi/ Núi đồi xanh
màu mơ ước/ Dòng sông đi qua đời người/ Buồn vui sàng qua mái tóc…” ( Thơ -
Đoàn Hữu Nam ). Huyền diệu, mỹ miều đến thế! Ôi dòng sông Mẹ vĩ đại đã miệt mài
trải tháng, trải năm, trải đời, trải kiếp nhọc nhằn, bồi đắp lên dáng hình đất
nước, bồi đắp lên lịch sử nền văn minh lúa nước rực rỡ, lập lên giang sơn xã
tắc mấy ngàn năm vững chí, bền gan. Và cũng mấy ai đã biết hết ngọn nguồn những
cơn cớ, những huyền tích mà dòng sông mẹ ấm ủ, thủy chung, có bao dung, có giận
hờn có cả nhẫn chịu và kiên trường. Đoạn chảy qua vùng trung du Phú Thọ “rừng
cọ, đồi chè đồng xanh ngào ngạt” chả hiểu xuất phát từ đâu mà người ta lại gọi
là sông Thao? Và về đến đất Thăng Long lại trả tên cũ là sông Hồng. Để rồi dòng
nước rịm đỏ phù sa ấy đã đi vào thơ ca, nhạc họa không biết bao nhiêu cho hết
“Sông Thao nao nức sóng dồi / Ai về Hà Nội thì xuôi cùng thuyền…” (Ta đi tới
–Tố Hữu).
Trong
cái nắng dỏng dảnh tháng ba giao mùa, lúc thì hầm hập làm bừng bừng cặp má đào
e thẹn, nóng lạnh, thất thường tính khí như thiếu nữ đang tuổi cập kê, những
hạt nắng đầu mùa vãi tràn nhuếnh nhoáng trên sông, lung linh tươi rói nương
ngô, bãi mía, trên những triền cỏ xanh ngắt bờ đê. Nắng vàng gọi tháng ba, gọi
lòng người, thúc dồn bước chân trảy chốn kinh kỳ nơi cố hương đất Việt.
Cuộc hội tụ dưới chân núi Thiêng.
Như đã
nói, chuyến về cội lần này tôi có cơ duyên. Bởi cuộc chiêu ngộ của Hội bảo vệ
Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam mới có cái may mắn này. Sự nối kết diệu kỳ đã đưa bước chân, tình
cảm của những người yêu màu xanh thiên nhiên trên toàn quốc có cơ hội xôm tụ
trên vùng đất Tổ linh thiêng. Được gặp, được xiết chặt những bàn tay, nghe
những lời chân tình thân thiết, được ghì vai thắm thiết các anh, chị là những
nhà khoa học, những Giáo sư, Tiến sĩ, và cả những người rất đỗi bình thường,
nhưng họ yêu thiên nhiên, môi trường với ước nguyện giữ mãi màu xanh quê hương,
cho cuộc sống tươi đẹp hơn.
Những
người bình thường giản dị ấy toát lên niềm vui và tự hào về những việc làm hữu
ích. Tôi cũng đã gặp và ấn tượng với các người bạn đến từ đại ngàn Tây Nguyên
Đắk Lắk xa xôi, những người có tình yêu rừng tha thiết, coi rừng là đấng thiêng
liêng tối thượng, sống chết với rừng, nương tựa vào rừng mà tồn sinh đời kiếp.
Những người dân hiền lành bao đời đã coi thần rừng, thần núi, thân sông, thần
lửa, thần nước là ân nhân, tồn sinh cùng cuộc sống con người. Có thể nói họ là
những người có tình yêu rừng vĩ đại hơn thể mọi tình yêu. Chỉ tiếc nhiều khi ở
họ chưa đủ uy quyền mà đành bất lực khi nhìn những cánh rừng ngày càng teo tóp,
tàn tệ. Nhiều lúc đành nín nhìn rừng ra đi mà khóc thầm, thương xót. Hoặc nơi
này nơi khác những cánh rừng đang bị biến tướng của các dự án, hợp thức hóa để
chuyển đổi rừng thành vàng, thành Đô La, thành Vila để “vinh thân phi gia” cho
một nhóm nào. Đến khi giật mình ngoảnh lại là sự hoang tàn cằn cỗi, đe dọa đến
sự sống muôn loài, và rồi có bàng hoàng hối hận cũng muộn mằn…
Những
người bạn hôm nay, có thể họ còn khó khăn, thiếu thốn, ngay cả kinh phí cho
cuộc xôm tụ này cũng rất hạn hẹp, thậm chí các anh chị đã được các doanh nghiệp
hảo tâm hỗ trợ và bỏ những đồng tiền com cóp ra để chi phí. Nhưng hết thẩy đều
vui. Tôi đã gặp một Già làng Ykhuô Ieban mộc mạc, chân tình. Một Già làng ngày
đêm đau đáu nghĩ về rừng, thì thầm với rừng giấc mơ đại ngàn. Ông đã kể cho tôi
nghe chuyện vận động bà con thôn buôn bảo vệ rừng. Những lý lẽ của Giàng (Trời) ban
phát, không động đến thần rừng, thần bến nước để thôn buôn yên vui hạnh phúc.
Có lần ông đã sống mái với bọn lâm tặc búa rìu, chúng đòi chặt hạ cây thiêng
của buôn. Ông cùng những người trong buôn đã dang tay ôm cây mà khảng khái:
“Muốn chặt cây thiêng thì hãy chặt đầu Già này trước đã!.” Một khí tiết tưởng
như không thể tin trong cái thời buổi đồng tiền thống soái. Vậy mà ông làm được
đấy, buôn làng làm được đấy! Làm được bởi cái tâm sáng thôi thúc, bởi sự sống
còn. Khi hỏi kỹ về cây thiêng ấy ra sao thì mới biết đó là cây cổ thụ trong khu
rừng đầu nguồn, nơi nuôi dưỡng nguồn nước như dòng sữa mẹ nuôi dưỡng cả buôn
bao đời. Cây thiêng ấy gồm cây đa, cây bằng lăng, cây Ktưng, không biết từ bao
giờ nhưng khi Già làng lớn lên đã có nó, ba cây quấn cuộn vào nhau khăng khít
như ba anh em ruột, người dân nơi đây gọi là cây Đoàn Kết. Theo các nhà
lâm học tính toán thì cây “Đoàn Kết” đã gần 300 năm tuổi. Và cây cổ thụ ấy đã
được tôn vinh là cây Di sản Việt Nam .
Lại
nữa, một người nếu không gần gũi dễ tưởng là mơ màng với cuộc xôm tụ này, em da
nâu, mắt sáng, dạn nắng gió bazan, bắp chân săn chắc, tròn lẳn mang cái dáng
vóc sơn nữ Ê Đê, sẽ tưởng như ngơ ngác. Thì hóa ra không phải vậy! Chị là một
nữ cảnh sát môi trường kiên trung, kiên quyết với những kẻ hủy hoại môi trường,
coi thường sự sống của cộng đồng… Lại nữa, một nhà thơ lãng mạn, mơ mộng say
tìm câu chữ tưởng như ngẩn ngơ với mây gió, nhưng đó là cả một trời xanh ngắt
trong anh về thiên nhiên.
Và còn
nữa, một thiếu phụ có mái tóc suôn dài chớm gót của xứ dừa Bến Tre, ngày ngày
thầm lặng với công việc gìn giữ những chứng tích tàn bạo của đế quốc thực dân
trong chiến tranh, nơi được gọi là “Địa ngục trần gian” - Nhà lao Côn Đảo. Cô
gái xứ dừa ấy đã cùng những người dân đảo nâng niu chăm sóc những dãy bàng cổ
thụ đã từng gắn bó bao kỷ niệm với những tù nhân Cộng sản kiên trung. Những cây
bàng găm trên mình vết sẹo thương tích đạn bom để nhắc nhở mọi thế hệ sau những
ngày đau thương chia cắt. Và nhiều, nhiều nữa những anh, chị đến từ đảo Cù Lao
Chàm sóng gió Quang Nam, từ đất Cảng hoa phượng đỏ Hải Phòng, từ Trà Cổ Quảng
Ninh, đến các anh, chị từ Miền Đông đất đỏ, Bình Dương, Bình Phước… trên các
nẻo đường xa xôi của đất nước cùng hội ngộ về đất Kinh kỳ dâng nén tâm nhang
báo với Tiên Tổ lòng hiếu nghĩa.
Và
không thể không ấn tượng với vị Giáo sư tiến sĩ khoa học Đặng Huy Huỳnh - Chủ
tich hội đồng cây Di sản Việt Nam . Mặc dù đã vào cái tuổi bát thập nhưng bước chân ông vẫn không
ngừng nghỉ trên mọi miền, từ núi cao xuống hải đảo xa xôi để nghiên cứu, vận
động nhân dân chăm sóc bảo vệ thiên nhiên. Tôi đã gặp ông trên đỉnh Hoàng Liên
Sơn bồng bềnh mây trôi, bồng bềnh mùa hoa Đỗ quyên tỏa sắc để thẩm định quần
thể cây Đỗ quyên và Vân Sam trên 300 năm tuổi...
Mỗi bước mỗi điều lạ,
tôi được tham quan một vườn cây cảnh đặc sắc của một đại gia P.H.T, tăm tiếng
đất Phú Thọ. Nghe nói hồ sợ của vườn đại gia này đã được công nhận đến 05 cây
là Di sản. Khách tham quan ai cũng choáng, cũng trầm trồ tấm tắc, gật gù nể phục, một gia đình có vườn cây giá trị cả trăm tỷ đồng thì khiếp quá đi chứ!
Điều đặc biệt khiến du khách và nhiều đại gia khác có lẽ phải chèm chẹp, mắt
tròn, mắt dẹt. Bởi đại gia này còn sở hữu một cây “Di sản” hơn cả ngàn vàng
bên phu nhân xinh đẹp đã từng đoạt vương niệm Hoa hậu biển Việt Nam . Song ai cũng thấy yêu mến, gần gụi hơn bởi cái tâm tính của
những người biết đem của cải, tài năng, sắc đẹp của mình làm việc có ích cho xã
hội. Cũng phải cảm ơn đời, cảm ơn những tấm lòng không mảy may bon chen, phát
huy những lợi thế của kinh tế thị trường để làm đổi thay cuộc sống, làm đổi đời
bao số phận nghèo khó, kể cả những chàng trai cách đây chưa xa còn lấm lem bùn
đất, họ đang mải mê phát huy sức lực trí tuệ, vươn lên làm giầu.
Chứng kiến Lễ kỷ niêm 5 năm ngày phát động Sự kiện Bảo tồn Cây Di sản Việt Nam,
cái đáng nói là Hội đã được sự đồng thuận của nhân dân, được sự quan tâm, giúp
đỡ của các cấp Chính quyền từ Trung ương đến địa phương, các tổ chức quốc
tế ủng hộ. Điều nhận ra rằng các hình thức thủ tục theo thông lệ rồi cũng
qua nhanh. Cái trịnh trọng bài vở xã giao như diễn thường gặp hình như không
thấy ở hội nghị này, kể cả sự thổi phồng thành tích, khen nịnh giả tạo, sáo
rỗng đều trở nên lạc lõng. Thay vào đấy chỉ là những tâm tình của những người
anh em cùng tâm huyết có chung một niềm tin.
Chiếc
xe 54 chỗ ngồi đã đưa chúng tôi đến chân núi Thiêng Đền Hùng. Tuy không đủ các
sắc màu của 54 dân tộc nhưng ai nấy hiểu ngầm rằng những trái tim xanh chung
nhịp đập ấy có trách nhiệm như một tộc người trên đất Việt, sinh ra từ cái bọc
trăm trứng Mẹ Âu Cơ.
“Vạn
vật hữu linh” Mọi vật đều có linh hồn, từ cây cỏ, hoa lá, đến tảng đá, bờ sông,
bến nước. Và ai đó có hoài nghi thì hãy cứ bình tâm mà chiêm nghiệm dòng chảy
của lịch sử dân tộc. Nhân quả, thiện, ác luôn là cặp đôi tồn sinh đối lập, sinh
dưỡng, chế ngự lẫn nhau. Đúng theo quy luật linh thiêng nơi Đất Tổ ngàn năm nay
chưa thấy sai, điều này thì ai cũng thấy cũng biết, đều phải công nhận. Đó là
những trận mưa rào mà vẫn được gọi là mưa rửa đền, trước và sau ngày giỗ chính.
Mưa tẩy rửa đi những bụi bặm, ô uế, nhơ nhớp của trần gian. Những trận mưa khác
lạ, mưa êm ái, mưa từng đợt, ngắt nhịp như nhịp trống đồng ngân vang ngàn xưa,
mưa đủ lượng, đủ liều, mưa tắm tắp, sáng láng cỏ cây. Không phải mưa giận, mưa
hờn, mưa tức tối, cũng không phải là những trận cuồng phong vặt lá bẻ cành
dương oai, múa võ của Thiên Lôi… Những cơn mưa làm dịu đi cái nóng ngột ngạt
trong tháng ba chuyển mùa, gọn gẽ và tinh tươm đến lạ. Chỉ chuyện mưa rửa đền
thôi cũng đã là điều khó lý giải cho các nhà khoa học rồi, cũng là
điều khó giải thích cho những người có chủ nghĩa vô thần, vô đạo rồi. Mà đã là
người vô đạo, vô lối thì còn có cái gì làm khuôn thước mà nắn chỉnh nữa, phải
không?
Phong tục tín ngưỡng
thờ cúng các vị Vua Hùng ở nước ta đã mấy ngàn năm nay. Và điều đó được Nhà
nước đưa vào quy định là ngày Quốc Giỗ dân tộc. Tôi tin dưới gầm trời này chưa
có quốc gia nào có phong tục như vậy. Thiêng liêng hai tiếng Đồng bào! Tín
ngưỡng thờ cúng các Vua Hùng đang được lập hồ sở đề nghị UNNESCO công nhận là
Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Cùng hát xoan Phú Thọ là Di sản văn
hóa là tài sản quý báu mà vùng đất thiêng này đang gìn giữ và phát huy.
Về
Đất Tổ chưa được ghe hát xoan thì thật là thiệt thòi. Người ta bảo hát xoan là
đơn điệu, là không hấp dẫn…Song hiểu được xoan thì không hề dễ. Điều may mắn
tôi được mục sở thị một buổi trình diễn xoan của các thiếu nữ còn rất trẻ, họ
biểu diễn ngay trên thảm cỏ xanh mướt bên bờ sông Thao ngân nga sóng nước.
Những nghệ nhân chum chúm tuổi mười năm, mười sáu còn e ấp, thẹn thùng bên
những nghệ nhân tóc bạc phơ, họ tập luyện hăng say. Các xoan nuột nà, quần chân
què den, áo nâu non, đầu khăn mỏ quạ, tay chân nhún nhẩy theo giai điệu nhịp
nhàng, tiếng hát cứ lanh lảnh, rền nẩy mượt mà khiến người xem tưởng mộng về
quá khứ xa xôi. Ngẫm thì càng vỡ ra nhiều điều về một nền văn hóa thời xa xưa
của cha ông. Chả biết hát xoan có phải là một hình thức sinh hoạt văn hóa văn nghệ
sớm và cổ nhất của thời Hùng Vương hay không? Song người nghe càng đằm vào giai
điệu càng thấy cái sự diệu vợi của quá khứ xa xôi đang hiện hữu trầm bổng. Các
làn điệu xoan có thể kể như: xoan cửa đình, xoan vào hội, xoan giao duyên, xoan
gọi mùa… Lại nhớ lúc đoàn hành hương tu tập về chân đền Hùng, khi xuống xe được
các bạn xoan của Trung tâm hoạt động Thanh thiên niên Hùng Vương đón tiếp bằng
một điệu xoan truyền thống. Cô bạn Ê Đê đi cùng thốt lên: Lại xoan anh ạ! Không
hiểu ý cô bạn nói gì? Tôi lơ mơ giải thích. Nghe ở không gian này mới thấm, mới
thấy cái tinh tế của hát xoan. Cái gì cũng phải có không gian của nó, ví như
hát xoan mà đem lên sân khấu giữa ánh đèn chớp nhoáng nhoàng, giữa nhạc sập
sình với những váy áo xanh đỏ, hai dây, thì ôi thôi còn gì là xoan nữa, khác
nào giết xoan còn hơn. Cũng như Cồng chiêng ở Tây Nguyên cũng vậy thôi! Cho nên
bảo tồn là phải bảo vệ được cả cái không gian của nó sinh ra, phải dành đất thì
mới dụng võ được!
Trong
cái náo nhiệt ồn ào của tiếng nói, tiếng cười, của dằn dặt những bước chân lên
bậc đá dòng người về viếng mộ Tổ. trong dòng chảy tâm can ấy họ đến từ mọi miền
đất nước và có cả những người con mưu sinh trên đất khách quê người, dù xa Tổ
quốc, dù người này người khác có những chính kiến này nọ khác nhau, nhưng chắc
rằng trong tâm khảm mỗi người đều đinh ninh được nguồn cội tổ tiên dân tộc
mình. Trong hối hả dòng người chảy hội, trong khói nhang nghi ngút, tiếng của
ông Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Sinh Chủ tich hội bảo vệ thiên & môi trường Việt
Nam tưởng như chìm khuất vào sự náo nhiệt. Song không phải vậy! lời ông như
vang hơn, thành kính hơn trước uy nghi Tiên Tổ. Chúng tôi tập trung dưới chân
núi thiêng mỗi người sáng lên nén tâm nhang. Mười tám cây xanh được đoàn trồng,
tượng trưng dâng lên mười tám đời Hùng Vương dựng nước. Trong thời khắc lắng
đọng này, ai nầy đều tâm nguyện lòng mình cầu nguyện cho đất nước thanh bình,
cho cuộc sống mãi xanh tươi, hạnh phúc.
Bỗng
reng reng điện thoại một người bạn gọi... Tôi sực nhớ người bạn thân hôm qua
đang có chuyến công du đất nước Chùa Tháp Cam Pu Chia điện về nói: Anh dâng nén
tâm nhang lòng giúp em lên Quốc Mẫu nhé! Ôi Tổ quốc Việt Nam , con cháu Tiên Rồng dù có đi bốn phương trời cũng không nguôi
trong lòng đất Mẹ…
Bạch Hạc - Địa linh, thủy, khí tụ.
…“Anh cứ nhắm thẳng hướng đền Tam Giang xa khoảng trăm
mét, chỗ nước cuộn xoáy mới là Ngã ba Bạch Hạc" - Lời cụ Nguyễn Khắc Xương
Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian dặn chúng tôi trước lúc tìm đến ngã ba thiêng
liêng cổ kính nhất nước Việt. Trộm nghĩ nếu không có nhà thơ Ngô Kim Đỉnh dẫn
đường chỉ lối thì cũng chả có dịp may mà được hầu chuyện cụ, một bảo tàng sống
về Văn hóa dân gian Đất tổ, người con trai duy nhất còn lại của cố thi sĩ Tản
Đà. Tôi lại vỡ ra nhiều điều phong phú và huyền bí về vùng đất Kinh kỳ Văn Lang.
Đến đầu
cầu Việt Trì, chếch sang phía ngoài bãi mênh mông sóng nước, huyền ảo sương
khói là nơi ngã ba giao duyên của ba dòng sông lớn:(Tam giang) Sông Lô, sông Thao và sông
Đà mà sử sách vẫn còn lưu danh vùng Bạch Hạc linh thiêng giữa trời
đất. Đứng đây, gió lồng lộng mang theo hơi ẩm ngai ngái phù sa mắt nước xông
lên, cảm giác se lạnh thư thái. Bên kia đầu cầu những chùm phượng vĩ đã bừng
những chùm lửa cháy khát khao, kiêu hãnh. Cả vùng đất kinh đô cổ thiêng Văn
Lang xưa như bừng sáng dưới nắng vàng đầu hạ.
Người
bạn “thổ địa” Ngô Kim Đỉnh biết tin tôi trảy kinh kỳ Văn Lang qua một người
bạn. Và tôi thì lại nghĩ không dám làm phiền nhà thơ, vì biết anh mùa này rất
bận với lại cũng phải thông cảm cho anh trong cuộc mưu sinh cơm áo, gạo tiền
trong lúc sa lỡ. Anh cũng như nhiều người yêu văn chương tỉnh lẻ khác, vẫn
không tránh được cái “ Cơm áo không đùa với khách thơ”*. Kính không bõ muốn
phiền, nên tôi chả dám thông báo. Nhưng xe tôi vừa khởi hành đã được anh điện
hỏi, lại còn dặn dò tỉ mỉ về đường đi ngõ lại và chỗ đón. Thật là cảm động tấm
lòng hiếu khách của người bạn đất Tổ. Cũng chỉ đôi lần nâng lên hạ xuống vội vã
trong những cuộc vui, vậy mà nên nhân, nên ngãi, biết đắng cay, ngọt mặn cuộc
đời mà bén duyên tình nghĩa.Vậy cuộc đời còn nhiều điều tốt đẹp lắm, đáng sống,
đáng yêu lắm chứ!
Trong
dáng chiều bảng lảng, chúng tôi ngồi quán nước bên này cầu lặng dõi mắt nhìn
dòng sông Thao mùa nước cạn. Từ ngã ba sông này dội lên bao điều huyền tích xa
xôi mà hiện hữu. Chỗ trung tâm khí tụ trời đất là đây. Nơi giao thoa của ba
dòng nước Thao - Lô - Đà là đây. Và nghe đâu ngã ba thiêng khí này đã nghìn đời
vào câu đối trên ban thờ Cơ Miếu Hùng Vương bằng ngữ Việt cổ mà người sau lược
dịch: Sách trời đã định, chính thống dựng kinh đô Bách Việt non sông có Tổ/ Núi
sáng khí thiêng, cố cung thành miếu mạo, ba sông quanh quất hướng chầu vua.
Tương truyền rằng một thuở trời đất ngã ba Tam Giang Bạch Hạc này cứ vào độ
tháng chín tháng mười từng đàn chim hạc tứ phương bay về quần tụ đỏ trời. Đất
lành chim đậu vùng ngã ba Bạch Hạc đã trở thành vùng đất địa linh. Các cư dân
đến đây làm ăn sinh sống đông đúc cuộc sống ấm no…
Để thỏa
trí tò mò tôi nhủ Ngô Kim Đỉnh đi về hướng xóm chài ven sông. Dưới nắng chiều
tháng ba loang loáng mặt nước trong sóng nước nao xao xô mạn thuyền, những con
thuyền của ngư phủ thả neo mệt nhọc nép bên bờ sau một ngày chài lưới. Nhìn
những khuôn mặt rám nắng, nhưng lực lưỡng sức vóc của người sông nước vẫn toát
lên vẻ phong trần. Trong khi lân la chuyện trò thì được lão ngư Dương Quang
Lùng nhiệt tình cởi mở, rồi câu chuyện về vùng địa linh, thủy, khi tụ Bạch Hạc
cứ âm âm, ngân ngân như lời xưa vọng về, qua lời lão ngư. Ông tâm sự: Gia đình
nhà Lão cũng đến năm đời bám vào dòng nước xoáy Bạch Hạc này mà mưu sinh. Giàu
có thì không đến nhưng cũng mua được căn nhà khang trang trên phố cho con cháu
và đầu tư học hành đến nơi đến chốn, đời chúng lão đã khổ rồi, đến đời các cháu
phải thay đổi, chả nhẽ cứ bám mãi vào mặt nới nước ngã ba này sao? Mà bây giờ
cá mú cũng đi đâu cả, khó sống lắm rồi…
Theo
hướng tay lão chỉ, nơi dòng nước xoáy Bạch Hạc có ba dòng sông khác biệt vần vũ
liên hồi bất kể mùa nước cạn hay mùa lũ, mỗi dòng mang một màu sắc, vị nước
cũng ba kiểu khác nhau. Sông Thao thì đỏ lịm phù sa, sông Lô thì nước màu bàng
bạc, óng ánh, sông Đà thì mang màu lục thủy, ba dòng nước cứ cuồn cuộn liên hồi
hối thúc. Dòng thì nước vị rất ngọt, dòng khác lại vị tanh mặn, dòng khác nữa
thì lờ lợ. Vào mùa nước lớn đổ về dâng cao mênh mông, sóng dữ, mù mịt khói
sương, người có kinh nghiệm thì cũng không dám liều mà bỏ mình cho hà bá. Đang
trò chuyện say sưa thấy nét mặt lão trang nghiêm ngoảnh nhìn về ngã ba vùng
nước xoáy mà lẩm nhẩm cầu khấn điều gì như bị chạm vía thần linh. Rồi lão nói “
Linh lắm, linh lắm các chú ạ!” Chúng tôi ai nấy đều hướng mặt về ngã ba dòng
xoáy với lòng tâm nguyện cầu xin. Không biết có khí thiêng, thủy tụ ra sao,
nhưng ai cũng thấy gai gai da gà. Nhìn vùng trời chiều bảng lảng hoàng
hôn, mờ ảo khói sương, những vần hồng sáng láng trên ngã ba sông cũng thấy lạ
thường.
Tương
truyền rằng chính nơi đây Lạc Long Quân và Âu Cơ đã làm cuộc chia ly theo tâm
nguyện ý trời, để đem bốn mươi chín người con theo Cha xuống biển và năm mươi
người con theo Mẹ lên núi, cuộc chia ly mở mang bờ cõi ấy mà thành dân đất Việt
ngày nay. Đời sau người dân nơi này thấy được sự linh thiêng của vùng Địa linh,
thủy, khí tụ này mà lập lên đền Tam Giang án ngữ trước ngã ba sông, chấn thủy
ngõ hầu, thờ phụng thần linh và Đức Phật cầu cho đất lành, dân yên. Thời chống
quân Nguyên Mông xâm lược, Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật đã đưa tướng lĩnh đến
bái Tổ đền Tam Giang mong xin phù hộ đại quân vững chí, cự địch trên dòng Đà
giang lừng lẫy.
Cũng từ
xưa tuyền lại tục xin nước ngã ba Bạch Hạc cũng lắm điều lạ, Người ta xin nước
tế thần cầu cho dân an nước thịnh, mùa màng tươi tốt. Lệ hàng năm vào ngày từ
22/2 đến 10/3 âm lịch là dân làng quanh vùng thường làm lễ tại đền Tam Giang và
trèo thuyền ra ngã ba Bạch Hạc xin nước. Dịp ấy cũng trùng với dịp giỗ Tổ Hùng
Vương nên người tứ xứ đến tấp nập dâng hương lễ tỏ lòng thành kính Tổ Mẫu và
cầu cầu may. Ông Lùng cho biết nước ngã ba Bạch Hạc linh thiêng bởi được hòa
hợp âm dương trời đất nơi thủy khí tụ. Người ta xin nước đem về để tắm gội,
người già thì khỏe mạnh, trẻ nhỏ thì được da thịt hồng hào, tuấn tú, thông minh
sáng láng, nam thanh nữ tú mà gội thứ nước đó thì tình yêu say đắm, bền chặt.
Và nước xin ở Bạch Hạc còn được người ta đem về cho vào chum cất giữ để dành
đến đến dịp cuối năm tắm cốt khi cải táng, nếu tắm rửa xương tổ tiên bằng nước
đó thì con cháu đời đời phát đạt, an gia. Các nho sĩ thời xưa đến đây lấy nước
để rũ bỏ hết những muộn phiền, âu lo mà sáng láng đèn sách. Tục ấy đã lưu mãi
cho đến ngày nay. Song đã bị biến tướng, người ta cũng nô nức về đây xin nước,
mà còn mua nước thiêng, có người mua can lớn, can nhỏ, chả biết thứ nước ấy múc
chỗ nào nữa, linh thiêng đến đâu? Họ mua với tham vọng, cầu thăng quan tiến
chức, cầu bồng lộc, phì gia, cầu được những mánh khóe chiếm đoạt…Tôi tin rằng
như vậy thì khó linh lắm!
Dòng nước thiêng ấy đã bị họ biến tướng thành hàng hóa
thời thị trường. Riêng ý này đã được Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn
Khắc Xương đề cập "Tục rước nước có từ thời Lý - Lê cùng tín ngưỡng thờ
lúa nước của cư dân nông nghiệp. Tục rước nước cổ xưa là mong ước cầu cho mùa
màng tươi tốt, quốc thái dân an. Hơn chục năm trở lại đây, tục lấy nước với mục
đích cầu thăng quan, tiến chức chính là những biến tướng của căn bệnh thời đại.
Nhưng âu cũng là sự tích hợp với những đổi thay tín ngưỡng mà mỗi địa vị lại có
cách hiểu khác nhau". Thiết nghĩ, điều cốt yếu sự linh thiêng còn phụ
thuộc cả cái tâm cái đức của người đi xin nữa.
Chuyện trên mặt nước đễ thấy, dễ tin. Còn dưới mặt nước, đáy dòng sông kia mới đáng để ngẫm suy. Lão ngư Dương Quang Lùng cho biết chính dưới lòng giữa ngã ba Bạch Hạc ấy có một quần thể đá ngầm kỳ vĩ, những hang động rộng, nước xoáy cuộn đến chóng mặt. Nhiều người dân còn gặp những quái thú kì dị dưới gầm đá, ông Lùng thì không tin có chuyện đó nói “ Chẳng qua đó là loài cá lăng, cá chiên khổng lồ mỗi khi trời đẹp, đêm thanh trăng sáng, chúng quần nhau quẫy đạp, tạo sóng nước vần vũ đấy thôi, lâu nay không gặp nữa…” Cũng có thể nước sông bị ô nhiễm nên chúng đã chuyển đi nơi khác hoặc do chài lưới săn bắt đến suy kiệt.
Chuyện trên mặt nước đễ thấy, dễ tin. Còn dưới mặt nước, đáy dòng sông kia mới đáng để ngẫm suy. Lão ngư Dương Quang Lùng cho biết chính dưới lòng giữa ngã ba Bạch Hạc ấy có một quần thể đá ngầm kỳ vĩ, những hang động rộng, nước xoáy cuộn đến chóng mặt. Nhiều người dân còn gặp những quái thú kì dị dưới gầm đá, ông Lùng thì không tin có chuyện đó nói “ Chẳng qua đó là loài cá lăng, cá chiên khổng lồ mỗi khi trời đẹp, đêm thanh trăng sáng, chúng quần nhau quẫy đạp, tạo sóng nước vần vũ đấy thôi, lâu nay không gặp nữa…” Cũng có thể nước sông bị ô nhiễm nên chúng đã chuyển đi nơi khác hoặc do chài lưới săn bắt đến suy kiệt.
Nói đến
địa danh Bạch Hạc nếu không nói đến loài sản vật nổi tiếng cá Anh Vũ, mà thời
xưa đã dùng để tiến Vua còn gọi là cá Vua thì thật là không đủ. Sản vật mà trên
đất Việt ta không thể có thứ thủy sản nào sánh bằng. Loài cá Anh Vũ này chỉ
sống quanh khu vực ngã ba Bạch Hạc nơi có dòng nước chảy xiết. Chúng ẩn trong
các khe đá ngầm dưới đáy dòng sông, ăn rêu tảo sạch, thân dài, có con nặng hơn
chục kg, hình dáng tựa cá trôi, nhưng vẩy ánh bạc, lấp lánh những đường viền
quanh vây, nếu nhìn cá bơi vào ban đêm thì toàn bộ vẩy cá phản sáng lung linh
như dát bạc, óng ánh như ánh lân tinh cháy dưới sông, chúng bơi nhào lộn như
nàng tiên múa, miệng cá màu hồng kỳ dị dài như mõm lợn. Khi bắt lên làm thịt
phải khấn ngũ lần trời đất bốn phương tám hướng. Có thể chế biến được nhiều
kiểu nhiền món, kể cả vẩy Anh Vũ cũng món hải vị quý không hề uổng phí bỏ đi.
Đấy là ông Lùng nói thế, biết thế chứ ngay cả dân trẻ thời nay quanh vùng có
hỏi cũng có mấy người biết hình dáng, diện mạo của ngài tiến Vua này xuôi ngược
ra sao đâu.
Có một
điều mà câu hỏi là tại sao cá Anh Vũ lại chỉ xuất hiện vào dịp cuối Đông đầu
mùa Xuân? Còn những mùa khác chúng đi đâu ? Câu hỏi đó đã làm cho nhiều người
kể cả những ngư phủ nơi đây cũng giải thích lơ mơ theo các giả thiết. Và liệu
các hang đá ngầm rộng sâu dước đáy sông kia có thể thông với dòng sông khác?
Liệu cá Anh Vũ không cần ra ăn vào các mùa khác mà vẫn sống? Giải đáp câu hỏi
này đã được nhà Bác học Lê Quý Đôn nêu ra trong cuốn sách viết về văn hóa
phương Đông “Vân Đài Loại Ngữ” đã phần nào lý giải: “Một dòng sông ngầm chạy
theo hướng Tây Bắc – Đông Nam từ hồ Điền Trì trên cao nguyên Tây Tạng dưới chân
núi Hymalaya trên đất Phật nước Nepanl chảy thông với Ngã ba Bạch Hạc. Các thủy
vật thường di cư qua lại dòng sông ngầm này theo mùa con nước. Trong các thủy vật
đó có loài cá quý dát bạc Anh Vũ, vào các mùa khác chúng lại bơi ngược dòng
sông lên thượng nguồn và rồi đến mùa băng tuyết chúng lại xuôi theo dòng sông
ngầm để về Ngã ba Bạch Hạc vào cuối Đông đầu Xuân…”
Ông Lùng còn kể, ngày còn trẻ vào những ngày ấm áp ông
còn lặn xuống gỡ lưới mỗi khi mắc đá ngầm, ông thấy cá Anh Vũ trong hang đá
nhưng không dám bắt vì sợ bởi cá của Vua Hùng. Nhưng lâu nay ngay chính mùa cá
Anh Vũ họ săn lùng ráo riết sản vật tiến Vua giá cả trăm triệu đồng một con. Và
loài Anh Vũ quý hiếm ấy như đã tiệt chủng, cũng chả ai bắt gặp nữa. Tôi đã được
nghe câu chuyện kể thời còn bao cấp những năm bẩy mấy tám mươi của thế kỷ
trước, một số người ngang ngược đem mìn xuống hang đá dưới đáy sông nổ bắt Anh
Vũ. Điếc không sợ súng, chả hiểu gì về thiêng khí Bạch Hạc ra sao. Khi mìn nổ
cửa hang đá vẫn y nguyên, cá thì không thấy đâu mà chỉ thấy máu người loang đỏ
nước sông…
Trong ngày xuân thanh
bình tháng ba trong sáng này, được thả lỏng mình thanh thản có những phút thư
thái giao hòa với Trời Đất để ngược về cội nguồn nơi Ngã ba Bạch Hạc, một địa
danh, một huyệt đạo thiêng, lành của Đất Việt, trộm nghĩ vậy cũng là may mắn
lắm thay.
Từ Thậm Thình đến Thiên Cổ Miếu
(VACNE) - …“ Đi qua xóm núi Thậm Thình/ Bâng khuâng nhớ nước non mình
ngàn năm”…
Câu thơ
của cố nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi trong bài “Qua Thậm Thình” nổi tiếng, đã kích
thích trí tò mò của tôi khi về đất Tổ lần này. Vậy cái xóm núi rợp mướt lũy tre
xanh ấy ở đâu? Và cái gì đã làm lên hai chữ Thậm Thình huyền bí này? Tất cả
những địa danh cổ xưa nơi các Vua Hùng dựng nước mãi là những kiếm tìm, của
nhiều đời con cháu. Từng nhành cây, ngọn cỏ, mỏm núi, vách đá, bờ sông nơi đây
chỗ nào cũng dấy lên những huyền tích linh thiêng. Để tìm cái xóm Thậm Thình
tôi đã hỏi không biết bao người, đi lại đến mấy vòng nơi ngã ba trên quốc lộ 2
một ngả rẽ vào Đền Hùng, nơi gặp đại lộ Hùng Vương chạy tít về phía Thành Phố
Việt Trì. Người thì nói: Chỗ ngã ba có cái tảng đá dưng lên khắc biển chữ “ Khu
di tích lich sử Đền Hùng” đấy chính là Thậm Thình, người thì bảo cái xóm ven có
đồi cọ xanh ngăn ngắt đấy, gặp mấy thanh niên thì lại nói chỉ có ngã ba sung
sướng thôi chứ làm gì có xóm Thậm Thình…Đai loại vẫn chỉ là chung chung. Cuối
cùng tôi gọi “thổ công” Ngô Kim Đỉnh. Qua điện thoại nghe anh nói cũng cảm
thấy mông lung quá. Tôi tự nhủ, thôi thì mình cứ đi, cứ tự tìm hiểu nhỡ đâu lại
vỡ nhiều điều gì khác lạ hóa lại hay!
“Trăm cô gái tựa tiên sa
Múa chày đôi với chày ba rập rình
Đêm đêm tiếng thậm... tiếng thình...
Cối thơm thơm cả nghĩa tình nước non”…
Bài thơ như một giai điệu văng vẳng thôi thúc, khiến bước chân tôi cứ
lần ngược mãi theo con đường láng nhựa rợp bóng cây xanh về phía Đền Hùng. Dừng
chân quán nước bên gốc đa, gặp cụ già râu tóc bạc phơ, tay cầm quạt lá cọ phe
phảy. Quán lợp lá đơn sơ, những chiếc bàn nghế đóng bằng loại tre già đã đượm
bóng lên màu thời gian. Nhìn cụ quắc thước, uy nghi, thoảng nét hiền hậu tiên
cổ. Có cảm giác ngỡ như cụ đã ngồi đấy đến cả ngàn năm trước, tay phe phẩy nhẹ
nhàng như thể cho phải điệu, cho sang cái chòm râu trắng như cước kia chứ không
phải chỉ lấy gió mát. “ Đã lâu lắm rồi mới lại có người hỏi tên xóm Thậm Thình,
ấy là tôi nói chú đấy” Rồi cụ giơ tay chỉ và giảng giải: “ Từ đây vòng qua mé
đồi có mấy cây cọ cụt ngọn bên kia, ra đến ngã ba ngoài lộ lớn là địa phận xóm
Thậm Thình ngày xưa đấy! Các cụ nói lại như thế thì biết thế, chứ giờ địa hình
cứ thay đổi từng ngày. Ấy mới có ít hôm không ra ngoài đó mà đã thấy khác lạ
lắm, cứ ngỡ mình không phải là mình nữa. Ông cụ lại quay xuống lập cập rót cốc
chè xanh mời, rồi ngẩng đầu hỏi tôi. Chú người đâu đến hả? Mà có rỗi hơi hay
sao mà lại hỏi Thậm Thình làm gì? Bây giờ lên phường của thành phố cả rồi,
không còn ai nhắc đến tên cũ nữa rồi!..” Ông cụ thủng thẳng nói như thể nói cho
chính mình nghe, như điều chi tiếc nuối. Một sợi dây nối quá khứ với hiện tại
rất mong manh, ảo ảnh, cái thì người ta muốn níu kéo, cái thì lại muốn thay đổi
không biết ra sao? Sự mâu thuẫn ngay chính trong mỗi con người chúng ta.
Theo tương truyền thì
nơi đây đất đai bằng phẳng Vua Hùng lập Tổng Minh Nông chuyên ruộng đồng, dân
được dạy trồng cấy lúa, trồng dâu dệt vải. Và một xóm nhỏ ven núi chuyên làm
cái nhiệm vụ xay giã gạo, lập kho cất giữ lương thực để nuôi quân. Tiếng chày
vang vọng thậm thình ấy trở thành tên gọi của vùng đất cổ từ đó. Thậm Thình
thời ấy còn là nơi nghỉ ngơi của các quân tướng, tộc trưởng khắp nơi về chờ
chầu Vua. Bởi thế Thậm Thình thời ấy đã trở thành trung tâm nhôn nhịp mua bán,
trao đổi lương thực, thực phẩm và sinh hoạt văn hóa tinh thần. Đêm đêm xóm núi
vang lên tiếng chày nhịp đôi, nhịp ba thậm thình, thậm thình nghe ấm áp, nhất
là vào dịp lễ hội bánh chưng, bánh giầy, hình ảnh các thiếu nữ đẹp như tiên sa
vung chày như múa, âm vang cả núi đồi. Một cái tên địa danh rất đỗi mộc mạc mà
sao lại gợi, lại dễ nhớ, bởi nó phản ánh lên cuộc sống ấm no của một xã hội
thời sơ khai. Cái tên Thậm Thình đã trải dài theo lịch sử mấy ngàn năm dựng
nước của một dân tộc, trải dài cả ngàn năm Bắc thuộc phong kiến vẫn không bị
mất đi, vẫn lưu truyền thì quả là sức sống mãnh liệt của bản sắc Việt không
phai nhạt. Ngày nay cái tên Thập Thình cũng ít người nhắc đến, sự đổi mới sát
nhập qua nhiều thời kỳ khác nhau. Và bây giờ thuộc địa phận xóm 2 Phường Vân
Phú – TP Việt Trì. Song cuộc sống thương mại và dịch vụ của vùng đất này thì
không ngừng phát triển, sầm uất từ cái nền tảng xưa. Cuộc sống kinh tế xã hội
ngày càng phát triển, du lịch dịch vụ đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của
địa phương. Chỉ đi dọc đại lộ Hùng Vương một đoạn đã có đến 15 cơ sở dịch vụ
nhà nghỉ, khách sạn, matsagees, gội đầu, tầm quất… Khách thập phương vào mùa lễ
hội về đây nườm nượp, hành hương bái Tổ. Ngã ba vẫn còn đó, rừng cọ vẫn ngát
xanh, chỉ có lòng người ít nhiều đổi thay. Bây giờ người ta gọi trật xái đi
thành ngã ba không mang cái sự ấm áp mà là sự phồn thực ong bướm..
Chiều
xuống nhanh. Trở về khách sạn Hương Giang trên Đại lộ Hùng Vương nghỉ ngơi bàn
tính chuyện đi Thiên Cổ Miếu. Khi qua ngã ba “sung sướng” phố đã nhập nhoạng
lên đèn, các đèn quảng cáo, trang trí hấp dẫn, lòng như đi qua cơn mê, lơ ngơ hiểu ra cái tên hàm ý
người ta đặt cho nơi đây. Tôi vội vã bước như người mộng du. Cố giấu lừa con
mắt không cho ngang dọc, cố giục bước chân thêm mải miết, cố cất cái tai như
bịt lại, không nghe những gì bên các ô cửa mở, đèn xanh đỏ gọi mời. Song càng
cố lại càng bị những thứ tưởng như vô thường đập vào tai, vào mắt, vào cả khiếu
giác của thằng đàn ông chưa đủ tĩnh tâm, tĩnh lòng. Những ánh đèn xanh đỏ nhập
nhoàng như chốn mê cung, những bóng chân dài, chân ngắn nhễ nhãi, mắt xanh, mắt
đỏ cứ hồn hỗn, những nụ cười lảnh lót đập vào tai vào óc. Những dập dìu và cả
mùi hăng hắc phấn son cứ nhập nhoàng chạy theo. Tôi cố chấn tĩnh xúi bàn chân
bước thật nhanh và may mắn chiếc xe Taxi cũng vừa kịp đón, chạy như ma đuổi về
phía cầu Việt Trì. Vừa đi vừa nghẫm sao thế nhỉ! Hay chăng do mình mệt mỏi quá
mà hoa mắt, ù tai, chóng mặt mà thấy vậy? Nhưng dù sao thì cũng đã đến nơi đấy
“ Xóm núi Thậm Thình” từ ngàn xưa. Và lòng nhủ lòng, học câu nói các cụ “đi một
ngày đàng…” quả không uổng phí.
Sáng
hôm sau tôi dấy sớm, lên nóc tòa nhà khách sạn đợi đón bình minh, săn vài kiểu
ảnh về TP ngã ba sông này. Thời gian dành cho chuyến đi thật hiếm hoi, không
thể bỏ phí từng phút. Từ sân thượng tòa nhà, nhìn về hướng Tây thấy núi Hùng
trong mờ sương trắng, nhìn về hướng Đông nơi khí thiêng Bạch Hạc cũng mịt mù
trắng sương, Ngược hướng Bắc đất cổ Phong Châu khu công nghiệp giấy Bãi Bằng
lớn nhất Việt Nam, mà những năm trước anh bạn Thụy Điển thủy chung giúp đỡ xây
dựng cũng sương trắng mịt mù. Có lẽ ông giời đang chuẩn bị vận khí chuyển nước
cho những trận mưa lớn rửa đền vào hội. Không đủ kiên nhẫn đợi bình minh, tôi
thu xếp đồ trả phòng, trong lòng vẫn cứ thấy tiêng tiếc, ngậm ngùi vì không có
cơ hội chụp bức ảnh binh minh nơi ngã ba huyền thoại.
Đúng
như hẹn, qua khu Trung tâm quảng trường Hùng Vương thì gặp anh bạn “Cố tỉ ”*
Ngô Kim Đỉnh. Sau chầu cà phê cóc vỉa hè chúng tôi vòng vèo theo con phố nhỏ về
hướng Phường Trưng Vương nơi tọa lạc ngôi đền Thiên Cổ Miếu linh thiêng. Tiếng
là phố nhưng tên gọi nơi đây vẫn là làng, thôn, bởi làng quê, ruộng bãi, bờ
tre bến nước sân đình vẫn còn vấn vít với miền đất này. Người dân hiền lành
chất phác, cuộc sông vẫn chủ yếu từ lúa ngô, từ chăn nuôi ruộng vườn. Vài năm
nay do sự làng lên phố đã có ít người mở thêm các dich vụ và buôn bán nhỏ.
Những nét cổ xưa của vùng đất này vẫn khá nguyên vẹn, những chiếc ao nhỏ thả
lục bình mùa này hoa nở tím ngắt, những chiếc cầu ao kê đá xanh rêu, những căn
nhà cổ tường gạch lở loét, đỏ ối, những cây si, cây đa, cây gạo sù sì già nua
năm tháng. Chỉ thấy những thiếu nữ hôn nhiên tươi trẻ, có điều lạ, nhìn ai cũng
hao hao giống nhau, nét mặt trái xoan, mắt lá răm, da trăng má nhon nhót hồng. Đặc
biệt là cái dáng người, ai cũng nhỏ nhắn lưng óng như ong mật, ngực nhưng nhức
áo nâu. Tôi và anh bạn vòng vào làng, qua khu ruộng gặp mấy cô, mấy chị đang
làm trên ruộng lại ngỡ mấy cô vừa gặp trong làng. Thì ra cái sự hao hao giống
nhau mới nghiệm ra rằng “đất có lề quê có thói” câu nói ấy tư xưa ngẫm mà đúng
ở mọi ngóc độ. Đất, nước, gió sương ngấm vào da thịt mà sinh ra dáng vóc, nuôi
dưỡng con người ta trưởng thành mà ra cái tinh túy riêng biệt vùng miền. Nơi
đây “Làng gái đẹp” mới đúng. Các cụ kể, đất này ngày xưa Công chúa Ngọc Hoa Và
Tiên Dung đã đến dạy dân làng trồng dâu, dệt vải và dạy các thiếu nữ hát xoan,
đến điệu đi, dáng đứng, nói cười rất cẩn trọng. Và nết ấy cứ truyền lại mãi,
mãi cho các đời sau.
Lại nhớ
lần bạn tôi rủ chuyến “phượt” ngược miền Tuyên, đến một bản hẻo lánh xa xôi.
Bạn bật mí, đây quê hương “miền gái đẹp” mà mọi người vẫn nghe đồn đại. Đường
núi quanh co, dốc dá lộc cộc, ghé thăm ngôi nhà sàn bên sườn núi chênh vênh,
gặp cụ già ngồi bên chân cầu thang lặng lẽ, mắt nhìn vào cánh rừng xa xăm,
quanh nhà mùi u uế của chất thải gia súc bốc lên nồng nặc. Những nếp gấp thời
gian khắc sâu trên khuôn mặt đầy ưu tư của cụ. Thoáng nghĩ sao không phải ngày
xưa đi, ngày cụ là hoa khôi nhất nhì trong vùng, đẹp đến xiêu lòng bao trai bản
ngân ngơ mà ngó nghiêng thèm, tiếc. Để thấy sự phũ phàng, khắc nghiệt của thời
gian cỡ nào? Mà đời người phải gánh chịu.
Nơi đấy
có nguồn nước ấm màu trắng đục như sữa mẹ chảy từ trong bụng núi ra. Chiều đến
nam thanh nữ tú trong bản tự nhiên đến bến của mình mà gột rửa bui bặm một ngày
vất vả, ngâm mình cho thỏa thích. Trai bến trên, nữ bến dưới, cứ thế mà nô đùa,
cứ thế mà nhênh nhang, thản nhiên, cứ thế mà hồn nhiên thây nẩy, trong trẻo như
cây cỏ, như xa xưa vẫn vậy, tắm mà như “Tiên tắm”. Nguồn sữa mẹ ấy nuôi dưỡng
nét ngọc, mày ngài làm lên nõn nà, da thịt con gái xứ này. Chả vậy mà có thời
nhiều người được chiêu mộ làm cung tần mỹ nữ chốn thâm cung. Ngày ấy có yêu
nhau chả lấy được nhau, lên chín lên mười đã được người lớn sắp đặt đâu vào
đấy. Bởi vậy nhiều đôi yêu nhau không lấy được nhau quyết bỏ đi vào rừng, quyên
sinh để sau này thành câu chuyện như cổ tích…
Và ta
vẫn có nghe “Chè Thái gái Tuyên” luôn là tuyệt đỉnh. Không biết chè Thái làm
nền cho sắc hương của gái Tuyên hay gái Tuyên làm sang cho chè Thái, thật là
một cặp trùng tuyệt chiêu, hoàn hảo. Lúc ngâm mình xuống suối nước khoáng như
lạc cõi mơ, lòng mềm mê mẩn ước. Khi về bạn nhặt viên cuội trắng bóc từ dòng
suối làm kỷ niệm, còn tôi thì níu giữ nơi đây vào ký ức một vùng rừng có những
bản nghèo khó như những khúc trầm. Giá như nơi này đừng cái gì động chạm đến,
đừng làm mất đi những gì là
nguyên sơ của nó, cứ để nó nguyên bản của nam thanh nữ tú hồn nhiên như cây
rừng kia. Và lại, giá như cuộc sống nơi đây người dân bớt đói nghèo đi, cụ già
kia không cô đơn ngồi dưới chân cầu thang nhà sàn giữa rừng hiu quạnh, không
rưng rưng đưa bàn tay khô khốc đón những tấm lòng hảo tâm. Song như thế thì lại
một mâu thuẫn nữa trong ta nẩy sinh. Biết làm sao đây?
Được “
Thổ công” dẫn đường lên chuyến viếng thăm Thiên Cổ Miếu của tôi khá thuận lợi.
Ngôi đền tuy nhỏ, khiêm nhường úp dưới bóng hai cây táu cổ thụ nhưng sự linh
thiêng và cổ kính thì khá đặc biệt. Khi bước những bậc đá lên sân đền ta thấy
ngay bức hoành phi đại tự lớn lấp ánh thếp vàng treo trên cửa điện chính ngôi
đền “Thiên Cổ Miếu”. Hai bên đôi câu đối trạm nổi: “ Hùng Lĩnh trung chi thắng
tích/ Nam thiên trích khí linh từ” Tạm dich: Thắng tích giữa vùng Hùng Lĩnh/
Đền thiêng khí mạnh của trời Nam” Hai bên cửa võng có đôi câu đối: “Đạo học nét
son ngời Lạc Việt / Văn minh dấu ấn rạng Hùng Vương” Còn nhiều những hoành phi,
câu đối khác được ghi thời Vua Tự Đức năm thứ nhất 1848. Những hoành phi câu
đối, cửa võng đều được ghi bằng thứ chữ Việt cổ.
Ông
Nguyễn Quý Thanh, ban quản lý khu di tích này cho biết : Ngọc Phả ngôi
đền được phát hiện do vụ hỏa hoạn. Trong khi dân làng chữa cháy, cứu chạy những
vật thờ thì phát hiện Ngọc phả cổ này. Căn cứ theo Ngọc phả ghi chép vào năm
Hồng Phúc thứ hai đời Vua Lê Anh Tông do các Đại Học sĩ Nguyễn Bính biên soạn.
Ngôi đền thờ hai vợ chồng người Thầy giáo dạy chữ thời Hùng Duê Vương: Tên thầy là Vũ Thê
Lang và người vợ là Nguyễn Thị Thục con cụ Nguyên Công quê ở Đông Ngàn –Kinh
Bắc. Người vợ hiền thục, nết na giỏi nghề tơ tằm, canh cửi, đã giúp dân nơi đây
nghề nông trang. Tiếng lành đồn xa, do học vấn cao, tận tụy với nghề, sống giản
dị đức độ nên Thầy đồ Vũ Thê Lang được Vua Hùng giao cho chăm nom việc học hành
của hai Công Chúa Ngọc Hoa Và Tiên Dung. Có một điều lạ là hai vợ chồng Thầy đồ
tuy không sinh cùng ngày, cùng tháng, cùng năm nhưng tạ thế lại cùng một giờ,
cùng ngày 2 tháng 2 năm Quý Dậu ( 228 trước công nguyên). Và được người dân lập
chung một mộ. Ngôi mộ đó được người dân dựng lên thành lăng và ngày nay vẫy nằm
chính giữa ngôi đền dưới bệ thờ. Do vậy đền Thiên Cổ Miếu rất linh thiêng. Cho
dù vật đổi sao rời hàng mấy ngàn năm, chiến tranh, giặc dã liên miên, thiên
nhiên tàn phá, bao lần sửa chữa nhưng tuyệt nhiên không ai dám động đến ngôi mộ
người thầy giáo. Sự linh thiêng còn ở lòng biết ơn với thầy giáo người đã có
công dạy chữ cho dân làng và còn thể hiện lòng Tôn sư Trọng đạo của dân tộc
Việt Nam .
Điều đó cũng khẳng định nền giáo dục thời Hùng Vương đã phát triển phong phú,
thể hiện bằng chữ Việt cổ là chữ viết đầu tiên của mình.
Trên bệ
thờ ta thấy có sáu pho tượng gỗ cổ, nổi bật là pho tượng thầy giáo Vũ Thê Lang
toát lên vẻ mặt hiền hậu nhân từ, chòm râu bạc phơ như bay trong gió. Kế bên là
pho tượng cụ bà Nguyễn Thị Thục, thấp hơn chút là hai công chúa Ngọc Hoa và
Tiên Dung, mặt hoa, da phấn cùng hai thị nữ đứng chầu.
Ngôi
đền tọa lạc khiêm tốn dưới bóng cây táu cổ mấy người ôm không xuể. Bóng cây
chùm mát chở che, vào dịp tháng năm hai cây trổ hoa thơm ngan ngát. Một cây cho
hoa trắng (bạc) một cây hoa vàng, sau mỗi con gió những bông hoa vàng bạc đó
rơi xuống trải khắp sân đền cứ như có người vãi gạo tám. Người dân nơi đây tôn sùng
gọi hai cây Táu là “Cụ Thần Cổ Mộc” Hiện nay một cụ hoa trắng (bạc) đang ốm yếu
do tuổi tác, bênh tật, đang được các nhà khoa học tích cực cứu chữa. Còn “Cụ
Táu” vàng vẫn xum xuê xanh tốt. Theo ông Thanh cho biết đó là những cái chồi
mọc lên cách đây khoảng 300 năm do trận cuồng phong bẻ gãy. Ông Thanh không
giấu nổi niềm tự hào: Hai “Cụ Táu” được các nhà khoa học đánh giá là cao tuổi
nhất Việt Nam ,
khoảng 2 100 tuổi. Và vừa được suy tôn cả hai “ Cụ Táu” là Cây Di sản Việt Nam cần bảo vệ
khẩn cấp. Tất cả những lẽ tự nhiên đó đã làm lên sự linh thiêng của Thiên Cổ
Miếu.
Rời Thiên Cổ Miếu tôi
hiểu vì sao sự nhỏ bé về diện tích, không làm giảm đi sự linh thiêng của ngôi
miếu thờ người thầy cổ nhất Việt Nam . Và điều đó càng khẳng định
được sự Tôn sư Trọng đạo đã trường tồn những giá trị văn hoá, lòng yêu nước, tự
tôn dân tộc của người Việt chúng ta.
Nguồn: Hội Bảo vệ Thiên nhiên & Môi trường
Nha văn Công Thế (áo trắng cộc tay đứng) |
Nhận xét