4238. Bu tôi
Bu tôi
Nguyễn Ngọc Dương
Minh họa. Ảnh Internet |
PNTB: Vào ngày này cách đây 67 năm (17/04/1948), có lẽ vào khoảng cuối giờ Tý, bu đã cho mình chào đời. Thế mà bu đã đi xa cũng đúng 40 năm rồi, ngày 12/5/1975, tức 2/4 năm Ất Mão, vừa "Giải phóng Sài Gòn" được 12 ngày. Toàn những sự kiện không thể quên.
Mình đăng lại bài Bu tôi, rút trong tập truyện ký Mảnh vườn ký ức, NXB Hội Nhà văn 12 - 2014, như thắp một nén nhang tưởng nhớ đấng sinh thành.
***
Bu
tôi sinh ra trong một gia đình khá giả. Ông ngoại tôi có tí chức tước, cả làng
vẫn gọi cụ là “Cụ Hội”. Sau này bu tôi bảo: “Ông ngoại làm Phó hội nhưng đó là
chức mua chứ không phải bầu”. Thời ấy cũng đã có việc mua bán chức tước, nhưng
mua công khai.
Tuy gia đình khá giả nhưng bu tôi
từ bé đã lam lũ. Suốt ngày chăn trâu, cắt cỏ, làm mọi công việc đồng áng như
những con nhà nông dân nghèo khác. Khi Cách mạng tháng Tám thành công, bu tôi
được bầu vào Ban chấp hành Hội Phụ nữ cứu quốc xã. Năm 1946, cụ Hồ kêu gọi dân ta
quyên góp vàng bạc để ủng hộ Chính Phủ chuẩn bị mua vũ khí, đạn dược cho cuộc
kháng Pháp. Bu tôi là một trong những người trực tiếp đi quyên góp. Có nhiều
người ủng hộ nhẫn vàng, khuyên tai, dây chuyền, vòng, xuyến... Có gia đình chỉ
có mỗi đôi khuyên tai là tài sản lớn nhất cũng đem ủng hộ cho Chính phủ.
Năm 1947, sau khi mẹ đẻ ra anh Nha tôi mất đã
mấy năm, thày tôi lấy bu về làm vợ kế, nuôi nấng, chăm sóc anh tôi, lúc ấy mới
lên 7 tuổi. Bu tôi bảo: “Thương thày mày gà trống nuôi con mà lại đẹp giai nên
tao mới đồng ý”.
Ngày 17 tháng Tư năm 1948, bu
sinh ra tôi. Bu kể: “Mày là con so, lúc đẻ ra nom như con mèo hen, chỉ bằng cái
chai đựng rượu của thày mày, tưởng không nuôi nổi...”. Được ba bốn tháng bu đi
làm đồng, thày ở nhà trông, cứ lấy cái lồng bàn úp vào cho ruồi nó khỏi bâu
(quê tôi trồng thuốc lào, dùng phân bắc nên ruồi nhặng nhiều vô kể) rồi lấy cây
đàn nhị ra kéo mấy bài dân ca là tôi ngủ như con cún. Lúc bu đi làm đồng về mới
cho bú. Hôm nào đói quá, khóc nhiều, bu chưa về kịp thì thày bế sang hàng xóm xin
bú rình bà bạn của bu cũng mới sinh con. Mà do ăn uống kham khổ, lại lội bùn
suốt ngày, lại tản cư chạy Tây nên bu không đủ sữa, tôi thường xuyên phải đi bú
rình. Tôi lớn lên không phải chỉ có sữa mẹ mà còn sữa của những bà láng giềng.
Cuối năm 1955 đầu 1956, Cải cách ruộng đất
về làng. Gia đình tôi được xếp vào thành phần Trung nông dưới. Lẽ ra là Bần
nông nhưng vì có người phát hiện nhà tôi có thêm một “tài sản lớn”, đó là hai
phần ba chiếc máy khâu Singer từ đời ông nội để lại. Chiếc máy khâu chia cho
hai anh em, thày tôi là trưởng nam được hai phần, chú tôi một phần. Hồi kháng
chiến đi tản cư thì thày mang chôn dưới gốc cây chanh ngoài vườn. Nay vẫn đậy
kín ở trong buồng. Cái tài sản ấy đã nâng cấp thành phần gia đình tôi từ Bần
nông lên Trung nông dưới. Tuy lên nhưng vẫn là “thành phần cơ bản” nên bu mới
được kết nạp vào Nông hội. Hôm được kết nạp bu về khoe, cả nhà mừng. Cái thành
phần gia đình ấy cực kỳ quan trọng với số phận mỗi con người trong gia đình tôi
suốt nửa thế kỷ, trải qua 3 thế hệ. Bất kỳ ai làm gì, đi học, xin việc, vào tổ
chức chính trị, xã hội...động khai đến lý lịch là phải có mục: “Thành phần gia
đình trong Cải cách ruộng đất”.
Trận đói năm 1955, 1956, tôi 7 - 8
tuổi nên nhớ lắm. Lúc ấy Nhà nước có chủ trương thu “Thuế động viên”.
Gọi là “động viên” nghĩa là do khó khăn của đất nước sau chiến tranh nên Chính
Phủ động viên ai còn nhiều thóc lúa thì tự nguyện đóng thêm thuế cho Nhà nước.
Tuy nhiên ở xã, ở làng người ta cứ đè đầu các nhà đều phải nộp thuế. Còn một
thúng cũng phải nộp. Nếu không nộp đội du kích đi kiểm tra phát hiện ra là lập
tức bị thu và còn bị cảnh cáo, thông báo trên cái loa cuốn bằng sắt tây cho cả
làng nghe. Còn anh ăn bằng gì, kệ. Viết đến đây tôi bỗng nhớ đến bài bút ký đẫm
nước mắt của Phùng Gia Lộc: “Cái đêm hôm ấy... đêm gì?” ở thời kỳ bao cấp, ba
mươi năm sau. Cũng y hệt...
Khi Cải cách ruộng đất về làng,
về xã thì không khí ảm đạm vô cùng. Chỉ mấy ngày, sau cuộc phân chia thành phần
giai cấp, những người bị quy là địa chủ, phú nông trở thành “kẻ thù của giai
cấp” của nông dân, cách xưng hô lập tức thay đổi. Trên trường đấu tố, câu mở đầu kèm theo cái
xỉa tay vào mặt “kẻ thù giai cấp” là: “Thằng kia, mày có biết tao là ai không?”...
Thế rồi bọn trẻ con bắt chước, hễ ra đường gặp địa chủ, phú nông, dù người đó
là ông bà chú bác mình cũng chỉ mặt: “Thằng kia, mày có biết tao là ai không!”.
Tôi thì không bắt chước bọn trẻ cùng lứa, cũng chẳng hiểu vì sao…
Nhưng sự ảm đạm còn làm cho không khí làng quê lạnh lẽo hơn bởi nạn đói
ghê gớm. Một hôm thày bu dắt díu mấy anh em tôi ra bãi tha ma, nơi lập kỳ đài “Tòa
án đặc biệt” đấu địa chủ, cách nhà khoảng hơn cây số. Ai cũng đói nhưng không
đi thì sẽ có thể bị quy là địch. Mà đã là “địch” thì sợ lắm!... Trẻ con đói
khóc như ri. Bà mẹ nào không giỗ được con để chúng khóc nhiều là cũng bị quy
cho tội gây rối đấu trường... Tôi lớn hơn, nhịn đói quen rồi nên vẫn mải chơi,
mải nghịch với mấy đứa bạn cùng lứa. Thằng Nguyên
em tôi năm ấy ba tuổi, nằm trong lòng bu thi thoảng lại khóc vì đói. Bu gọi tôi
lại giao “nhiệm vụ”: “Con về bà ngoại xin cho em nắm cơm”. Tôi ngoan ngoãn chạy
đi. Khi về đến bà ngoại thì bà bảo: “Nồi cơm vừa cạn, cháu chờ tí cơm chín bà
lấy cho”. Nhưng lúc ấy đối với tôi sao “một tí” mà lâu thế!. Tôi chạy ra ngõ
bắt bướm rồi quên khuấy nhiệm vụ bu giao. Tôi quay lại trường đấu, trên đường
qua một nong nước, nhặt được hòn cuội trắng như quả trứng ngỗng. Từ xa, bu tôi
nhìn thấy liền dỗ em: “Kia rồi, anh mày nó xin được cơm kia rồi!” Thằng em nín
khóc, vẫy tay rối rít. Đến nơi, tôi vô tư chìa ra hòn đá cuội. Biết không phải
cơm, nó tuột khỏi tay bu, lăn xuống bãi cỏ, khóc toáng lên. Không biết bu sợ
những người Cải cách ruộng đất hay thương thằng Nguyên đói mà bu vồ vội lấy nó,
ôm chặt nó vừa khóc vừa chạy ra bờ ruộng để tránh xa khu vực đấu trường...
Trận đói ấy ở làng tôi không chết
ai vì đã sang thời mới rồi. Chứ năm 1945 khi cách mạng chưa thành công, dưới
thời Pháp, Nhật làng tôi chết đói nhiều người lắm. Thày tôi bảo đến nỗi người
chết không có người chôn, cứ phơi ra ở đường mấy ngày thối tha lên, ghê
lắm...Nhưng cảnh đói hiện tại đã khiến anh em chúng tôi, thày bu tôi người nào
người nấy gầy như que củi, da xanh như tàu lá. Anh em tôi thường xuyên phải vác
cuốc ra ruộng rau muống mà người ta đã hái hết, lật đất lên, đập ra lấy “củ”
rau muống về ngâm nước, rửa sạch, phơi khô rồi ghế vào nồi cơm. Một hạt cơm
cõng hai ba cái củ rau muống. Cả nhà ăn ai cũng khen bùi. Chỉ có điều là dù rửa
kỹ mấy thì vẫn phải nhai cả sạn, đất, làm sao mà sạch được. Thày tôi bảo: “đất
cũng sạch, ăn không việc gì đâu!”. Quả vậy, đói cái gì cũng ngon…
Bu tôi là người duy nhất suốt
ngày phải chạy ăn cho cả nhà. Trong nhà không có lấy bất kỳ cái gì có thể ăn
sống người, ngoài mấy cây đu đủ đã ăn hết quả. Thày tôi chặt cả cây xuống, bổ
ra, thái nhỏ phơi khô độn vào cơm. Bu tôi hằng ngày phải đi bộ hàng chục cây số
sang quê ngoại ở Quỳnh Côi, Thái Bình vay bà con cô bác. Có hôm mang về được
mấy ống gạo hay mẻ khoai lang ăn dè được một hai hôm đã hết. Rồi sáng sớm tờ rờ
đất bu lại đi. Thày tôi đói thì ngồi kéo nhị. 5 anh em chúng tôi đứa nọ trông
đứa kia, đói quá thì lăn vào chân đống rơm nằm ngủ. Ngủ chán dậy, đứa bé khóc,
đứa nhớn dỗ...
Một hôm đến gần nửa đêm không
thấy bu về, thành thử đến cả tôi là nhớn cũng cứ dào nước mắt ra vì vừa đói vừa
nhớ bu. Thày tôi cũng chán, lăn ra giường ngáy khò khò. Tính ông vô tư là vậy.
Khoảng nửa đêm thấy bu về. Cả lũ chúng tôi mừng quá, hai thằng em khóc toáng. Khi
thày tôi vặn to cái đèn hoa kỳ lên thì bu tôi vẫn vừa nói vừa run. Bu kể: Cái
đò nan qua con sông Hóa bị thủng một lỗ nhỏ. Sang đến gần bờ bên này thì nước
vào lưng thuyền. Ông lái đò mọi ngày vẫn vừa chèo vừa tát nước. Hôm nay ông bận
gì nên giao cho thằng con mười lăm tuổi cầm chèo. Khi nước vào nhiều, nó luống
cuống không chèo được vào bờ. Con thuyền nan cứ quay tròn cách bờ hai con sào.
Những người ở trên bờ nhìn thấy lo quá phải hô hoán: “Tất cả bình tĩnh. Anh kia
không chèo nữa. Hai người lấy ống bơ múc nước ra. Còn những người khác lấy nón
vợt nhẹ cho thuyền từ từ vào bờ”. Đến gần bờ người ở trên kéo thuyền vào. Chỉ
một tí nữa là đắm đò chết sạch. Toàn đàn bà, trẻ con không biết bơi... Lên được
đến bờ, biết chắc là sống rồi mà bu tôi vẫn run bắn chân tay không đi được,
phải ngồi lại bờ đê sông Hóa hàng giờ, gần tối mới lọ mọ đội cái thúng có mấy
củ khoai lang về... Nếu bu tôi chết đận ấy thì cuộc đời chúng tôi sau này không
biết sẽ ra sao?
Khoảng năm 1958, Đảng thực hiện Sửa
sai Cải cách ruộng đất. Cuộc sống vui vẻ hẳn lên. Bu tôi thỉnh thoảng dấm dúi
nấu nồi rượu gạo cho thày tôi uống và đôi khi bạn đến chơi có chai rượu “quốc
lủi” nhâm nhi với đĩa lạc. Vì Nhà nước cấm nấu rượu (tất nhiên không cấm uống),
nên bu nấu vào ban đêm và không dám thắp đèn. Một hôm tôi thấy bu tôi kêu thất
thanh và thấy lửa bốc sáng lòa góc bếp. Mọi người chạy vào thì phát hiện bu tôi
bị bỏng. Bà kể: “Không biết lọ rượu đang hứng đã đầy đến đâu, bu liền châm cái
đóm, mở cái khăn ướt phủ trên miệng lọ và ống rượu đang chảy, soi vào miệng lọ.
Lửa bắt vào lọ rượu đang nóng cháy bùng lên. Bu giật mình, nghiêng lọ hắt… lửa ra,
tưởng là hắt ra thì hết ai ngờ hắt luôn vào ống quần. Một chân bu thành ngọn
đuốc sống... Ngày ấy làm gì có tiền đi nhà thương. Bu cứ loanh quanh chữa bằng
lá lẻo thuốc nam, cho nên nó kéo dài sự đau đớn của bu mấy năm giời. Những đám
sẹo sùi ra ở chân bu, lồi lõm như thể hình thù những miếng san hô. Thời kỳ ăn
da non nó ngứa ngáy khiến bu không ngủ được. Suốt ngày, thằng Dũng, thằng
Nguyên phải lấy cái tăm khêu vào những chỗ lõm trên mảng sẹo cho bu đỡ ngứa...
Trong khi chín mươi phần trăm
người làng mù chữ thì chả hiểu được học từ bao giờ, bu tôi có trình độ học vấn
lớp ba. Bà mê đọc sách lắm. Ở trong nhà bao giờ cũng có những bộ tiểu thuyết
Trung Quốc như: Hồng Lâu Mộng, Thủy Hử, Tam Quốc Chí, Tây Du ký... Đêm đêm bu
chong đèn, vừa quạt cho các con ngủ vừa đọc truyện. Sau thời kỳ Cải cách ruộng
đất, người ta đi thu hồi và đốt rất nhiều sách, cấm không cho ai đọc. Chẳng
biết cấp trên cấm những sách gì. Nhưng ở làng vì đa số không biết chữ nên sách
gì cũng đốt. Bu tôi tiếc lắm. Năm 1957 khi thày tôi nhờ người lợp lại cái mái
nhà rạ thì một ông hàng xóm lúc rỡ mái cũ thấy bật ra mấy quyển sách, có cả
tiểu thuyết Trung Quốc, cả Truyện Kiều, cả Cung oán Ngâm khúc...thế là bị tịch
thu. May, không bị tù tội... Sau này tôi mới biết đó là thời kỳ “nhân văn giai
phẩm”.
Được vài năm kinh tế khá lên một
chút, cuộc sống vui vẻ hơn một chút cho đến sau năm 1961 trở đi cuộc sống lại
tụt dần... Năm 1964, học hết lớp Tám, bu vận động tôi nghỉ học để đỡ sự đóng
góp. Mặc dù nhà tôi lúc ấy có bốn đứa đi học (ba đứa con và một đứa cháu con
chú ruột tôi đã mất), nên theo chính sách chung, mỗi đứa được miễn một phần ba
học phí. Và đứa anh học xong để sách giáo khoa cho đứa em. Bản thân tôi thì
mang vở của năm trước ra ngâm nước vôi cho tũa hết mực đi, phơi khô dùng lại,
đỡ phải mua giấy vở. Thậm chí cái ngòi bút sắt chỉ có 2 xu mà tôi cũng tiết
kiệm không mua, đi vặt trộm lông ngỗng về vót thành bút chấm mực viết. Nhưng mọi
biện pháp tiết kiệm cũng không đỡ nổi cho bu tôi phải đi làm hàng xáo kiếm mớ
cám, bán đi lấy tiền đóng học phí và mua sách cho con cháu học. Bởi có mấy sào
ruộng đã xung công vào hợp tác xã. Mà hợp tác xã thì cứ hết mùa chỉ được chia
vài giành thóc, chưa đến ngày ba tháng tám đã hết sạch. Lại đói.
Đúng lúc ấy có cuộc vận động đi “xây dựng
kinh tế, văn hóa miền Núi”. Nói như thế cho sang chứ nói “đi khai hoang” thì nó
có vẻ hèn hèn. Công tác tuyên truyền của ta phải nói là tài tình. Chỉ cần đổi
chữ này thành chữ khác là làm cho người nghe mát lòng mát dạ. Thế là thày bu
tôi quyết định ra đi. Thôi thì quê hương bản quán, nơi chôn rau cắt rốn, nơi mà
những khóm tre, bờ ao, những bến nước, sân đình, những cánh đồng mang tên Đồng
Cửa, Đồng Cục... từ bao đời đã ăn sâu vào máu thịt...Nhưng giờ đây cuộc sống
khốn khổ đã kéo quá dài nên mệt mỏi. Bước chân ra đi hy vọng có sự đổi thay
cuộc sống?.
Trong mười năm, từ 1965 đến 1975,
cuộc sống khai hoang nơi rừng thiêng nước độc, bằng lao động chân tay, chặt
cây, đốt nương, trèo đèo, lội suối, không quen với khí hậu nơi thâm sơn cùng
cốc, với muỗi, vắt, ruồi vàng, bọ chó...và đặc biệt với 7 lần sinh nở trong
những điều kiện cực kỳ thiếu thốn, đã biến bu tôi từ một phụ nữ khỏe mạnh thành
một người đàn bà yếu ớt, nhiều bệnh tật.
Khoảng cuối những năm sáu mươi, bốn mươi tuổi, bu đã phát
bệnh. Lúc thì ho, lúc thì sốt...da dẻ cứ xấu đi. Hiểu biết y học lúc ấy cũng
rất kém, hơn nữa làm gì có tiền đi những bệnh viện lớn khám cho ra bệnh để điều
trị đến nơi đến chốn. Khi nào nặng quá thì xuống trạm xá xã tiêm cho vài mũi,
được mấy viên B1 uống vào là có vẻ như khoẻ hẳn ra. Lại về. Bệnh cứ lai rai,
nhiều người bảo rằng, bà bị bệnh “hậu sản”. Tôi đang công tác hành chính ở
phòng y tế huyện, cách nhà 20 cây số, lúc nào cũng lo cho sức khỏe của bu. Bạn
bè trong ngành y tế thỉnh thoảng có thuốc bổ phân phối như rượu canh ki na, phi
la tốp, sinh tố B12 nhiều lúc nhường nhịn để tôi mang về cho bu. Có lần được
phân phối một hai lạng cao xương cũng mang về cho bu. Chỉ mong làm sao bu khỏe
lên. Nhưng bu không khỏe mà cứ yếu dần.
Bu là người đam mê sách văn học, thích nghe đài. Tôi đã kiếm
bằng được chiếc đài Orionton, làm pin muối cho bu nghe tin tức cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước, trong đó có hai thằng em đang ở chiến trường. Tôi tìm những
cuốn truyện của các nhà văn Việt Nam như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ
Trọng Phụng, Đào Vũ...để bu đọc cho khuây khỏa, quên bệnh tật, hy vọng bu khỏe
lên!
Giữa năm 1974, khi vợ tôi đang mang thai con
gái đầu lòng thì một hôm cô hàng xóm đạp xe hai mươi cây số ra cơ quan báo tin:
“Anh ơi, bà mất rồi!”. Tôi rụng rời chân tay. Cái bút đang viết đổ xuống. Nước
mắt trào ra nhỏ tòng tọc xuống trang giấy. Tôi không nói được câu nào, cứ ngồi
như thế mãi mới đứng lên được như người vừa qua cơn ác mộng...
Tôi xin cơ quan Ủy ban huyện cho một chuyến
xe Gat 69, hai giờ sau về đến nhà. Đã tám giờ tối. Ngôi nhà gianh, cột chôn
chống nóc, vây bằng nứa của thày bu nằm đơn độc ở sườn đồi, im ắng và tối
tăm...Thày tôi bảo: “Bu mày đang cấp cứu ở trạm xá xã...”. Thì ra, lúc bu tôi
bị cấp cứu, cô hàng xóm vội đạp xe đi báo tin cho tôi nghĩ rằng bà đã đi. Quay
xe lại trạm xá, tôi bàn với chú Nguyên, em tôi là y sĩ công tác ở Phòng Bảo vệ
bà mẹ trẻ em huyện xin đưa bu đi Bệnh viện tỉnh ngay. Cuộc thảo luận rất chóng
vánh. Anh y sĩ trạm trưởng đồng ý và tiện xe, chúng tôi đưa bu lên Bệnh viện
tỉnh điều trị. Người ta bảo bà bị bệnh lao, tức lao lực. Sau này các thày thuốc
bảo tôi: Đó là thứ “bệnh của người nghèo”. Nguyên nhân sâu xa bệnh tật của bu
là do chính cái nghèo sinh ra!
Sau hơn một tháng điều trị tại khoa Lao của
Bệnh viện tỉnh, bu đỡ, ra viện. Nhưng bệnh không khỏi hẳn. Cuộc sống vẫn khó khăn.
Bệnh tật vẫn dai dẳng. Tôi đã nghe người ta mách tìm cả rau thai nhi ngâm mật
ong mang về cho bu, nhưng bu vẫn không khỏi. Thỉnh thoảng tôi về thăm. Bu nói
dối: “Hồi này bu khỏe hơn rồi!”.
Tháng Ba năm 1975 một cơn lốc xoáy kéo một
vệt dọc xã Phong niên, nơi thày bu tôi đang sinh sống. Hằng trăm ngôi nhà bị đổ
hoặc tốc mái. Khi gió to, thày bu tôi và hai thằng em chạy xuống một cái bếp
nhỏ ở dưới thấp để lánh nạn. Chỉ trong giây lát, cơn lốc “bốc” cả ngôi nhà ba
gian, cột chôn chống nóc của thày bu tôi tung lên giời và văng ra phía trước
khoảng chục mét. Nóc nhà lộn ngược xuống, cả 8 cái cột quân, hai cái cột cái
chổng vó lên như một con trâu bị phải gió. Cũng lạ, cái đèn phẫn thày tôi mang
ở xuôi lên từ ngày đi khai hoang, chao bằng sứ, mỏng mảnh là thế mà vẫn bám
theo xà nhà, không vỡ. Trên nền nhà đất đầy nứt nẻ chỉ còn trơ ra hai cái
giường ba xà, một đống chum vại và dụng cụ gia đình... Từ hôm ấy thày bu tôi và
thằng Nho, thằng Nhi đứa học lớp 7 đứa học lớp 4 phải sống ở cái bếp chỉ hơn
chục mét vuông. Vừa nấu ăn vừa ngủ, vừa là nơi tiếp khách... Muốn làm lại được
cái gọi là nhà như thế trong hoàn cảnh ấy ít nhất phải hằng năm.
Hôm 30 tháng Tư năm ấy, tôi đang nghỉ phép,
đi rừng kiếm mấy cây nứa làm dàn mướp cho thày bu. Khoảng 5 giờ chiều vừa vác
nứa về đến nhà vứt xuống sân thì bu gọi, giọng đầy phấn chấn: “Con ơi, mày biết
gì chưa? Giải phóng Sài Gòn rồi. Hết đánh nhau rồi!” “Sao bu biết?” “Một cái ô
tô của huyện vừa qua đây có gắn loa ở trên nóc, nói là Giải phóng Sài Gòn trưa
nay rồi!”. Bu tôi như khỏe hẳn ra, bởi tâm trạng của một người dân gần như suốt
đời không trực tiếp cũng gián tiếp với chiến tranh. Nghe thấy bom đạn là ghê
sợ, đã hai mươi năm chờ đợi hòa bình. Hơn nữa, thằng Dũng em tôi, công an vũ trang
lại đang trên đường vào Nam …
Nhớ lại hơn hai mươi năm trước đó, hồi kháng Pháp, một lần đang ở nhà bà ngoại,
thấy có tiếng tàu bay, bu bế thằng Nguyên khoảng 1 tuổi, dắt thằng Dũng 4 tuổi
và hét tôi chui xuống hầm. Tôi chui dưới hầm nhưng vẫn thích ngó ra, nhìn lên
trời để xem tàu bay thỉnh thoảng lướt qua đầu, gầm rú trên không. Tôi nhìn thấy
một chiếc tàu bay đít vuông. Bu tôi túm vạt áo kéo tôi vào rồi hai tay chắp
lại, mồm cứ lẩm nhẩm: “Con lạy Giời lạy Phật, đừng để Tây
với Ta đánh nhau nữa, hòa bình đi thôi…”. Sau được nghe ngưởi lớn nói chuyện,
hôm ấy, mặc dù đã sắp đến ngày đình chiến, máy bay “phóng phảo” của Tây vẫn bỏ
bom na-pan ở làng bên, làm cháy thêm nhà, chết thêm người…
Sau 1/5/1975, tôi trở lại cơ quan làm việc.
Đến chiều ngày 12 (mùng 2 tháng 4 âm lịch) thì nhận tin sét đánh: Bu mất! Lần
này thì bu mất thật. Vợ chồng tôi và chú Nguyên đang công tác ở huyện chuẩn bị
hậu sự cho bu bằng việc chạy giấy tờ xin mua vải liệm, xô màn trắng làm băng
tang cho con cháu, đánh điện cho cái Liệu em gái tôi đang học Trường Thống kê
trung ương, anh chị Nha ở Hải Phòng...rồi tức tốc về.
Thày tôi kể: “khoảng 9 giờ sáng, bu mày đang
đọc sách ở gốc mít trên kia, tự nhiên kêu khó chịu đứng lên vào được đến cửa
bếp này thì gục xuống. Thày chạy vội vào đỡ. Máu từ trong miệng bu mày thốc ra
lênh láng một gian bếp. Trên tay vẫn cầm cuốn tiểu thuyết Lưu lạc của Đào Vũ mà
không trăng trối được một lời...”
Bu nằm trên tấm phản kê làm giường ở góc
bếp. Tôi kéo cánh màn một lên, khuôn mặt bu xanh mét, hốc hác, đôi mắt nhắm
nghiền như đang ngủ. Trên khóe môi của bu vẫn còn dính một giọt máu đã khô...Bu
sinh năm 1926, đến lúc ra đi mới vừa tròn bốn mươi chín tuổi. Tôi thầm gọi: Bu ơi,
bu...! Nước mắt tôi trào ra, khuôn mặt của bu nhòa đi trong góc cái bếp nép
dưới chân một quả đồi nằm đơn độc gần đường cái. Chả lẽ, cả một kiếp người, lận
đận từ xuôi đến ngược, giờ này bu mới được thanh thản hay sao!?
Hôm sau, thày tôi nhờ bà con gác mấy cây nứa
trên nền ngôi nhà đã bị “bốc” mất trong trận gió lốc hơn hai tháng trước, lợp
lên mấy phên gianh để che linh cữu cho bu.
Sau này trong một lần nói chuyện với thày
tôi, thày bảo: “Hồi trước, những thứ mày gửi về cho bu mày bồi dưỡng sức khỏe,
bu mày đều không chịu dùng. Toàn giấu đi, mang bán lấy tiền để chi sắm cho gia
đình, mua dầu, mua muối, mua thức ăn: chai nước mắm, bìa đậu, mấy con cá khô
cho cả nhà...
Lào Cai, 25/8/2013
N.N.D
Nhận xét