3573. Cơ chế xin cho giết chết sáng tạo từ trong trứng nước
Cơ chế xin cho giết chết sáng tạo từ trong trứng nước
Thợ Cạo
(NĐB) - Dư
luận tuần qua nổi sóng về việc hai cha con ông Trần Quốc Hải sửa và chế tạo xe
tăng cho quân đội Hoàng Gia Campuchia với tính năng tốt hơn nhiều so với xe của
Liên Xô sản xuất trước đây, được phong danh hiệu Đại Tướng Quân. Người Việt
thành đạt ở nước ngoài, dù là nước đang phát triển như Campuchia cũng là điều
đáng tự hào. Chuyện đáng nói ở đây, ông Hải từng là tác giả của hai chiếc máy
bay trực thăng nhưng không được cơ quan nhà nước cho phép bay thử và cũng
không được phép tiếp tục nghiên cứu sản xuất. Hai chiếc máy bay này được bán
cho Viện Bảo tàng New York
(Mỹ) và Viện bảo tàng Nghệ thuật Đương đại Busan (Hàn Quốc). Nhiều người đã
khen anh Hải và chê trách các cơ quan hữu quan quản lý Việt Nam không biết
trọng nhân tài, so sánh rằng Việt Nam có hàng vạn tiến sĩ, hàng ngàn giáo sư
nhưng không chế tạo nổi cái đinh vít đủ sức cạnh tranh thị trường. Chuyện anh
Hải không phải cá biệt mà là hệ quả cơ chế xin cho ban phát ngay trong sáng tạo
khoa học.
Không rành về vũ khí nên không
dám lạm bàn về thành công của anh Hải đến mức độ nào nhưng nhìn lại quả là số
lượng tiến sĩ, giáo sư nước ta rất đông. Ngân sách hàng năm chi cho hoạt động
nghiên cứu khoa học, công nghệ không phải nhỏ nhưng tìm đỏ mắt không thấy sản
phẩm nào “Made in Việt Nam ”.
Tiêu ngân sách lớn, tiến sĩ
nhiều nhưng không làm ra sản phẩm
Theo luật KHCN sửa đổi vừa được
Quốc hội thông qua, có hiệu lực từ năm 2014, ngoài đầu tư của nhà nước tối
thiểu bằng 2% tổng chi ngân sách (Điều 49), bắt buộc các doanh nghiệp phải dành
một phần lợi nhuận trước thuế của họ để đầu tư lại cho nghiên cứu R&D thông
qua việc thành lập Quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp. Nếu chỉ tính
riêng khoản chi ngân sách tương đương mức 2% thì hàng chục năm qua, chúng ta đã
đổ ra cả núi tiền cho hoạt động này. Từ cấp trung ương đến cấp địa phương, hằng
năm có hàng tá đề tài nghiên cứu khoa học được nghiệm thu, nhưng sản phẩm thì
từ công nghiệp đến nông nghiệp, những thành tựu khoa học kỹ thuật của ta hiển
hiện bằng sản phẩm cụ thể “Made in Việt Nam” quả là quý hiếm. Ngay chiếc xe đạp
cũng chỉ mới là lắp ráp những thiết bị nhập từ nước ngoài. Trong nông nghiệp
thì ngoài con cá Ba Sa do ông Nguyễn Minh Nhị (lúc làm Giám Đốc Sở Nông Nghiệp
và Phát triển Nông Thôn) cùng một nghiên cứu sinh người Pháp nghiên cứu cho ép
nhân tạo từ con cá tự nhiên thì hầu hết các giống con, cây của ta đều phải nhập
khẩu từ hạt dưa hấu đến hạt bắp, con gà, con vịt, con tôm…Ngay quả Thanh Long
vốn là đặc sản của Việt Nam giờ lại thua giống lai tạo của Đài Loan, có ruột đỏ
hấp dẫn và giá mua cao hơn. Với hạt lúa, sản phẩm xuất khẩu chủ lực của ta thì
ngay cái tên đã sặc mùi ngoại nhập: jasmine, Khaodak Mali , Thơm Đài Loan.
VAM-2 bảy năm đắp chiếu,
phải xin phép lại từ đầu
Rõ ràng là hàng vạn tiến sĩ,
giáo sư đang hưởng bổng lộc xênh xang và hàng núi tiền đầu tư cho các hoạt động
nghiên cứu đã như gió vào nhà trống. Vì sao có tình trạng đội ngũ trí thức có
văn bằng, có nghiệp vụ đông, chi phí đầu tư không nhỏ mà không làm ra sản phẩm?
Vì sao trí tuệ tiềm tàng của hơn 90 triệu dân Việt không được phát huy để làm
ra sản phẩm Việt có sức cạnh tranh thị trường? Anh Hải đã có câu trả lời nôm
na, so sánh sự khác nhau giữa Việt Nam và Campuchia về quản lý, sử
dụng thành quả sáng tạo là “Ở Campuchia, nếu anh làm được một công trình nào
đó, đánh giá xong, họ công nhận anh là nhà khoa học. Ở Việt Nam, người làm
được thì họ không công nhận, người chưa làm được gì thì công nhận”. Đó là
nhận xét nôm na nhưng nói lên đúng bản chất của vấn đề. Việc quản lý, tiếp nhận
những sáng tạo khoa học ở nước ta vừa qua đã vận hành theo cơ chế xin cho, ban
phát, tạo điều kiện cho các nhóm lợi ích, các mối quan hệ thân quen tiêu tốn
ngân sách vào các công trình nghiên cứu vô bổ và tác hại hơn nữa là gây khó,
bóp chết các sáng kiến, kết quả sáng tạo của người dân bằng thói quan liêu.
Trở lại việc nghiên cứu sản
xuất máy bay của anh Hải bị cơ quan quản lý bác bỏ, có thể là do anh nghiên cứu
tự phát, cá nhân, e rằng trình độ của anh chưa đảm bảo được chiếc máy bay an
toàn. Thế nhưng, đồng thời với anh Hải có dự án chế tạo Máy bay siêu nhẹ “Made
in Vietnam ”,
được Thủ tướng Phan Văn Khải giao nhiệm vụ từ những năm 2003. Những người, tổ
chức tham gia dự án là các nhà khoa học chuyên ngành của Hội Cơ học Việt Nam,
trường Đại học Bách Khoa Hà Nội và TPHCM, cựu sĩ quan không quân và một số Việt
Kiều đã từng có kinh nghiệm và công nghệ sản xuất máy bay mô hình. Họ đã sản
xuất thành công chiếc máy bay VAM-1 từ năm 2003 nhưng riêng việc xin bay thử đã
phải qua bao thủ tục lên bờ xuống ruộng, mất cả năm trời. Khi được cho phép bay
thử cũng hoãn đi hoãn lại vì lý do hết sức đặc biệt là sân bay được chỉ định
cho bay thử đang được một doanh nghiệp thuê để phơi hạt điều. VAM-1 bay thử
nghiệm thành công, đến 2007 họ đã sản xuất thêm VAM-2 nhưng không được cấp phép
thử nghiệm bay nên VAM-2 phải đắp chiếu suốt bảy năm qua. Mãi đến tháng 4 năm
nay, khi báo chí chất vấn, ông Lại Xuân Thanh, Cục trưởng Cục Hàng Không mới
biết có dự án này. Ông Thanh đã nhận trách nhiệm là: "Nếu đúng là các nhà
khoa học nộp hồ sơ từ 2007 mà Cục chưa xử lý thì tôi đại diện Cục gửi lời xin
lỗi đến đội ngũ nhà khoa học chế tạo ra VAM-2". Dù nhận trách nhiệm như
vậy nhưng ông Thanh cũng không biết Cục có đủ năng lực để xem xét một bản thiết
kế máy bay hay không? Bởi vì hiện nay tất cả các loại máy bay của chúng ta đang
khai thác đều được sản xuất ở nước ngoài, được nhà chức trách hàng không của
nước ngoài công nhận, họ cấp giấy phép, còn Cục chỉ công nhận lại, đây là vấn
đề khó khăn nhất hiện nay. Để cấp giấy phép thiết kế một loại máy bay đòi hỏi
trình độ chuyên môn công nghiệp hàng không cực cao, đây là vấn đề không phải dễ.
Ông Thanh hướng dẫn việc cần
làm hiện nay của các nhà khoa học là hoàn thiện hồ sơ và nhanh chóng gửi lại
cho Cục Hàng không. Ông Thanh nói rõ: "Hồ sơ cần nêu rõ địa chỉ cơ sở sản
xuất, thí nghiệm, hồ sơ về máy bay VAM-2, lúc đó Cục mới bắt đầu thực hiện xem
thiết kế máy bay có đảm bảo đáp ứng thiết kế, đáp ứng tiêu chuẩn an toàn bay
hay không". Nghĩa là sau bảy năm nộp hồ sơ xin phép và đã sản xuất xong,
người sáng tạo phải làm lại hồ sơ từ đầu mà cũng không biết có được cho phép
hay không. Rõ ràng với cơ chế quản lý như vậy đã bóp chết sự sáng tạo của nhân
dân từ ngay trong trứng nước.
Dừng di dời nhà thờ hàng
trăm tấn trên ao nước chờ xin giấy phép
Cho rằng công nghiệp sản xuất
máy bay là công nghệ cao, gây nguy hiểm cho người bay và người dưới đất, có ảnh
hưởng đến an ninh quốc phòng vv… nên phải gây khó nhưng ngay trong lĩnh vực đơn
giản là xây dựng, Thần Đèn Nguyễn Cẩm Lũy người có sáng kiến di dời các công
trình xây dựng lớn như Đình Nại Am ở Quảng Nam, cổng chùa Vĩnh Nghiêm ở Phú
Nhuận TPHCM cũng từng bị cơ quan quản lý hành đến ngất ngư trong giai đoạn đầu
tiên. Lần di dời một nhà thờ ở Tân Hòa, Phú Nhuận trong thời điểm khó khăn nhất
là đưa nhà thờ nặng hàng trăm tấn đi qua ao nước rộng hàng trăm mét thì cơ quan
quản lý buộc phải ngừng di dời để làm thủ tục xin giấy phép hành nghề, trong
khi đó danh mục đăng ký hành nghề chưa có nghề di dời này và cũng không có quy
định tiêu chuẩn kỹ thuật nào để quản lý. Ai cũng biết rằng ao nước là nền đất
yếu, những dụng cụ kê kích chỉ đảm bảo an toàn cho nhà thờ trong thời gian ngắn
khi di chuyển, việc đặt nhà thờ trên ao nước trong thời gian dài để chờ làm một
thủ tục chưa có quy định thì khác nào xô sập nhà thờ. Vị cha xứ, chủ đầu tư
công trình phải lên tiếng kêu cứu, báo chí phải lên tiếng can thiệp, cơ quan
chức năng mới cho phép tiếp tục di dời.
Rõ ràng, cơ chế quản lý khoa
học theo kiểu xin cho không chỉ là cơ hội cho những nhóm lợi ích, cho các quan
hệ thân quen xâu xé nguồn ngân sách quốc gia mà còn triệt tiêu những sáng kiến,
sáng tạo từ nguồn lực của nhân dân như anh Hải, dự án VAM và bao nhiêu người
khác.
Nhận xét