3571. Đinh La Thăng và chuyện quy trách nhiệm cá nhân
Đinh La Thăng và chuyện quy trách nhiệm cá nhân
Bàn trong trực tuyến/VNN
Hệ
thống rất cần những lãnh đạo bản lĩnh và quyết đoán như Đinh La Thăng. Nhưng
hành vi cá nhân của Đinh La Thăng phải được chuyển thành cơ chế thì mới có hiệu
quả - Ts Trần Đình Thiên nêu quan điểm.
Không
ai sai cả, chỉ tại tình hình!
Việt
Lâm: Hai chuyên gia đã điểm huyệt tình trạng đầu tư công lãng
phí do hai nguyên nhân cốt lõi: Thứ nhất là cơ chế xin-cho. Nguyên Phó Thủ
tướng Vũ Khoan từng nói nếu tái cơ cấu mà không đụng vào được cơ chế xin-cho
thì mọi nỗ lực đều khó đem lại hiệu quả. Thứ hai là cơ chế quy trách nhiệm cá
nhân. Đây cũng là câu hỏi của rất nhiều độc giả gửi về chương trình. Tôi xin
phép đọc câu hỏi đại diện: Ai là người chịu trách nhiệm đối với những công
trình bạc tỷ lãng phí đó?
Nguyễn
Xuân Thành: Tôi muốn lấy ví dụ dự án xây một cây cầu ở thành phố. Dự
án này thuộc nhóm A, với tổng mức đầu tư 100 triệu USD, thực hiện cách đây 5
năm. Vì dự án là công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, có nằm trong quy
hoạch nên UBND các tỉnh thành có trách nhiệm chuẩn bị, lập dự án, làm báo cáo
nghiên cứu tiền khả thi rồi trình Chính phủ để Thủ tướng phê duyệt chủ trương.
Vì dự án thuộc nhóm A nhưng chưa phải trọng điểm quốc gia nên không cần đưa ra
Quốc hội. Sau khi Chính phủ phê duyệt chủ trương, đánh giá dự án có hiệu quả
kinh tế-xã hội thì UBND thành phố tiếp tục nghiên cứu tính khả thi, đưa ra
quyết định đầu tư với ý kiến của các bộ ngành. Sau khi dự án được duyệt, được
bố trí vốn thì triển khai.
Thế
nhưng trong quá trình triển khai, vì trục trặc hợp đồng trong vấn đề xây dựng,
đền bù giải tỏa nên bị đội vốn. Thành ra phải vay thêm tiền để đầu tư, trách
nhiệm trả nợ cao hơn, nên mức thu phí không đủ để trả nợ. Cuối cùng phải bố trí
thêm ngân sách để thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
Câu hỏi
đặt ra là trách nhiệm thuộc về ai? Dự án được đánh giá là tốt, vậy việc đội
vốn, chậm đền bù giải tỏa là lỗi của ai: nhà thầu, chủ đầu tư hay cơ quan địa
phương chậm trong giải tỏa đền bù hay là do trách nhiệm của chính quyền địa
phương hay cơ quan TƯ trong quá trình thẩm định?
Thế
nhưng, theo cơ chế hiện tại của VN thì cuối cùng không ai chịu trách nhiệm cả.
Đọc lại tất cả các văn bản thì các bộ, ban, ngành đều bảo tôi làm đúng luật đấy
chứ. Vấn đề là tình hình thay đổi. Ví dụ: đền bù chậm trễ là do mức giá đền bù
không phù hợp rồi, người dân không đồng ý. Cuối cùng không ai sai cả, chỉ tại
tình hình!
Nếu
chúng ta muốn quy trách nhiệm thì phải quy định rõ, trong quá trình thực hiện
dự án ấy, ai là người chịu trách nhiệm trong từng khâu một. Chẳng hạn, ai là
người chịu trách nhiệm theo dõi quá trình công tác? Ai chịu trách nhiệm đền bù
giải tỏa, chủ tịch quận, huyện này hay tổ đền bù giải tỏa? Về hợp đồng, đối với
vấn đề giám sát là chủ đầu tư, hay vấn đề vốn theo kế hoạch là sở đầu tư. Vấn
đề là hệ thống văn bản thì đúng pháp luật, nhưng từng chỗ ra quyết định không
chỉ ra tên người hay tên cơ quan phải chịu trách nhiệm.
Hệ
thống của mình thiếu quy trình gắn trách nhiệm cụ thể đó. Thiếu không phải bởi
vì chúng ta không biết mà vì chúng ta muốn nó thiếu để sau có gì thì chịu trách
nhiệm tập thể. Chính điều này làm quy trình đầu tư công nhiều thủ tục, nhiều cơ
chế như thế.
Ts
Trần Đình Thiên: Tôi đồng ý với anh Thành là chỗ này liên quan đến cơ chế
trách nhiệm tập thể, lãnh đạo tập thể. Nghĩa là phần của cá nhân rất ít, cho
nên không ai chịu trách nhiệm cả. Như mọi người vẫn đùa vui, bắt cái “thằng cơ
chế” chứ không bắt được thằng nào cả.
Còn về
trách nhiệm cá nhân, trong thực tiễn có những trường hợp hư hỏng đến mức không
thể không có ai chịu trách nhiệm. Ví dụ như chuyện cần cẩu rơi chết người hay
sập cầu gì đấy, phải có một ông chịu trách nhiệm. Đến lúc đó, rơi vào ông nào
thì ông ấy phải chịu thôi. Thế nhưng khi chỉ có một ông chịu trách nhiệm thì xã
hội lại bức xúc rằng như thế chưa công bằng vì toàn bộ hệ thống phải chịu trách
nhiệm chứ. Cho nên, do ở ta không có quy định cụ thể về trách nhiệm cá nhân,
nên khi buộc phải xử lý cá nhân thì lại gây ra bức xúc xã hội.
Gần đây
tôi thấy có một xu hướng tích cực là khuynh hướng thị trường hóa tác động, buộc
anh phải quy trách nhiệm cá nhân. Và cứ gắn với trách nhiệm cá nhân là mọi
chuyện tốt hơn nhiều. Ví dụ như chuyện thuế. Lãnh đạo Chính phủ gọi các ông lên
bảo 7-800 giờ làm thuế như thế quá lãng phí, không thể chấp nhận được. Các ông
tìm cách mà giảm đi. Nếu không giảm được thì đi chỗ khác mà làm. Những ông này
về bổ đầu trách nhiệm cá nhân xuống cấp dưới. Đó là việc của các ông, còn người
lãnh đạo chỉ biết đấy là việc của các ông. Mấy tháng sau quả nhiên giờ làm thuế
giảm ầm ầm.
Câu
chuyện lớn hơn là khi ràng buộc được trách nhiệm cá nhân là phải hành động
ngay. Từ lúc cam kết mà ông không làm để kiếm thêm tí nữa thì ông phải ra đi.
Còn nếu ông muốn ở lại thì ông phải làm đi. Ông buộc phải lựa chọn rõ ràng: một
là ông ở lại, hai là ông không làm, ông kiếm thêm một tí rồi ông ra đi. Khi rõ
ràng như thế thì mọi chuyện thay đổi ngay.
Hay
chuyện cổ phần hóa DNNN. Bộ trưởng Bộ GTVT có lần nói: Đấy, các ông tổng giám
đốc đã cam kết rồi nhé! Nếu từ giờ đến cuối năm mà các ông không làm đúng cam
kết thì mời các ông đi! Kết quả là cổ phần hóa được.
Dĩ
nhiên, ở ta những ví dụ ấy chưa nhiều. Điều tôi muốn nói ở đây là phải thay đổi
hệ thống, cơ chế để tách cá nhân phải chịu trách nhiệm về phần việc chức năng
của mình. Chứ còn không có định rõ chức năng mà ông bao sân hết thì lại viện
dẫn trách nhiệm tập thể thôi.
|
Hành
vi cá nhân của Đinh La Thăng phải chuyển thành cơ chế
Việt
Lâm: Anh Thiên đã đề cập đến một số trường hợp thú vị, đó là
những người lãnh đạo quyết liệt có thể làm mọi thứ chuyển động được. Như bây
giờ có rất nhiều người nhắc đến hiện tượng Đinh La Thăng. Nếu nhà thầu chậm
tiến độ, hay anh nào làm sai thì Bộ trưởng Thăng trảm tướng ngay lập tức. Trong
khi chờ đợi chuyện thay đổi cơ chế, mà chắc sẽ rất dài, rất nhiều trở ngại thì
có lẽ chúng ta phải trông chờ vào những cá nhân lãnh đạo quyết liệt như vậy?
Ts
Trần Đình Thiên: Thời gian
qua không chỉ có ông Đinh La Thăng mà còn một vài ông đứng đầu các tỉnh, như
trường hợp Bí thư Quảng Ninh hay Hà Tĩnh đều đẩy hoạt động bộ máy lên rất mạnh.
Việc một người hành động quyết liệt, bản lĩnh cá nhân mạnh là rất tích cực
nhưng với điều kiện là phải nhận thức được đúng việc mình làm. Nếu ông quyết
sai ông chết ngay. Nói cách khác, phẩm chất cá nhân phải phù hợp với xu hướng,
nếu không cũng rất nguy hiểm.
Tôi rất
thích cách làm của anh Thăng. Phải rõ ràng, dứt khoát và gắn với trách nhiệm
như vậy. Nhưng chính anh Thăng phải thừa nhận cách chức một ai đó là không dễ.
Bởi đây đâu phải là một cá nhân mà là con người của một bộ máy. Trách nhiệm tập
thể ở đâu khi mà người ta làm như vậy. Nhiều khi mình cách chức lại oan cho
người ta chứ không phải đã thực sự đúng.
Nhưng
điều tôi muốn nhấn mạnh là hành vi cá nhân của Đinh La Thăng phải được chuyển
thành cơ chế thì mới ăn thua. Tức là không có Đinh La Thăng thì câu chuyện
trách nhiệm vẫn phải rõ ràng, và có chuẩn mực, chứ không phải cứ bắt tại trận.
Cứ bắt tại trận thế này thì trời đất nào mà làm được! Phải có cơ chế để bộc lộ
tất cả những cái sai thì mới được.
Công
khai hệ thống chỉ báo đánh giá hiệu quả
Nguyễn
Xuân Thành: Theo tôi, vấn đề quản
lý nhà nước trong thực hiện đầu tư rất quan trọng. Và anh lãnh đạo phải tạo
được sức ép như thế nào để bộ máy của anh chịu sức ép ấy và buộc phải làm. Muốn
vậy, phải có những chỉ báo về hiệu quả và kết quả. Nếu như anh không đạt được
những chỉ báo ấy thì người lãnh đạo có đủ thẩm quyền để kỷ luật, cách chức anh.
Những biện pháp ấy phải được thể chế hóa. Nếu không, như anh Thiên vừa nói,
chúng ta sẽ lâm vào tình trạng là: nếu anh làm đúng, tức là chỉ đúng bệnh, bắt
đúng tội mà anh làm mạnh thì rất tốt. Nhưng nếu anh bắt sai tội mà anh làm mạnh
thì hiệu ứng ngược.
Luật
Đầu tư công có hiệu lực vào năm sau đã có một phần nói về trách nhiệm giải
trình của các dự án. Theo tôi, trong quá trình soạn thảo nghị định cũng như các
thông tư hướng dẫn sắp tới, Bộ Kế hoạch Đầu tư cần làm mạnh, làm chi tiết các vấn
đề này. Đó là gì? Dự án thuộc trọng điểm quốc gia, hay nhóm A, B, C thuộc các
cấp phê duyệt là Chính phủ, bộ ngành TƯ hay UBND các tỉnh thì quá trình phê
duyệt minh bạch là gì, mục tiêu phát triển là gì? Không chỉ dừng lại ở
mục tiêu phát triển mà còn phải xây dựng và công khai các chỉ báo đánh giá tính
hiệu quả của dự án để dư luận được biết.
Hiện
tại, chúng ta chưa có hệ thống chỉ báo này nhưng các dự án được tài trợ bằng
vốn ODA, đặc biệt là của Ngân hàng Thế giới đều có các chỉ báo. Ví dụ xây một
con đường thì các chỉ báo là gì? Chẳng hạn dự án này sẽ chỉ đạt hiệu quả nếu
tổng mức đầu tư không vượt quá mức này và được thực hiện trong ngần này thời
gian. Tức là có thể trễ tiến độ đến hai năm vẫn có hiệu quả nhưng đến năm thứ
ba thì sẽ mất hiệu quả. Dự án nếu như xây xong và từng này xe tải đi từng này
xe bốn chỗ, từng này xe máy đi qua thì hiệu quả, thấp hơn mức này thì không
hiệu quả. Tuy nhiên, những thông tin này chỉ được chia sẻ trong các cơ quan nhà
nước chứ không công bố. Trong khi đó các dự án từ vốn trái phiếu chính phủ và
các nguồn ngân sách khác thì hoàn toàn không có chỉ báo.
Bây
giờ, khi thiết lập hệ thống chỉ báo, chúng ta có thể lấy tham chiếu là các dự
án ODA của Ngân hàng Thế giới, và bổ sung thêm các chỉ báo của VN. Cần quy định
luôn trong các nghị định là bắt buộc tất cả dự án ở các cấp phải công bố các
chỉ báo ấy để đánh giá. Khi đó, anh mà làm không đúng thì tôi biết ngay có lỗi
ở đâu, có trách nhiệm cụ thể. Người lãnh đạo có đủ mạnh mẽ, lại có sự hỗ trợ
của cơ chế để làm đúng và người dân và xã hội có thể quan sát được. Đây vừa là
sức mạnh của nhà nước vừa là trách nhiệm giải trình trước xã hội. Chỉ như vậy,
chúng ta mới có thể tăng được hiệu quả của đầu tư công.
Ts
Trần Đình Thiên: Ý kiến của anh Thành làm tôi nhớ đến chuyện “đường cong
mềm mại” lùm xùm trên báo chí gần đây. Chính vì những chỉ báo, chuẩn mực để đo
lường hiệu quả không có, lại không được công khai nên nó cứ u u minh minh.
Đến lúc
may mà dân phát hiện ra, rồi báo chí vào cuộc mới rõ ra. Nhưng có khi phát hiện
ra rồi người ta vẫn lẳng lặng làm như cũ thôi bởi vì cơ chế trách nhiệm không
rõ ràng.
Ở đây
có mấy yếu tố: Một là, quy hoạch phải được công khai, đất chỗ nào là ranh giới
chứ không phải ông cứ xà xẻo, uốn lung tung lên. Hai là, các tiêu chuẩn đo hiệu
quả phải rõ ràng. Thứ ba, ông phải treo đầu làng cho người ta xem, để ai cũng
biết. Cuối cùng là bộ chế tài để quy trách nhiệm. Kể ra thì nó không khó đến
mức như chị Lâm nói. Nếu chúng ta muốn làm thì làm được ngay.
Ts Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế VN. Ảnh: Lê Anh Dũng |
Nguyễn
Xuân Thành: Quay lại vấn đề lúc đầu anh Thiên đã phân tích là chuyện
khan hiếm nguồn lực. Nguồn lực dễ dãi cũng có vấn đề mà khan hiếm thì lại tạo
điều kiện cho chạy chọt, phong bì. Kiểu gì cũng thấy bi quan.
Nhưng
tôi lại thấy chính những khó khăn, khan hiếm hiện nay là cơ hội. Bởi nếu chúng
ta không làm được thì tăng trưởng kinh tế chậm, mọi thứ dễ đổ bể. Cho nên, khó
khăn lại là cơ hội để có quyến tâm chính trị mà làm.
Thay
đổi cốt lõi cơ chế phân bổ đầu tư bằng chùm luật
Việt
Lâm:Có lẽ cơ hội mà anh Thành vừa nói
đã ló dạng đâu đó. Bởi chúng ta có thể thấy Chính phủ đã nhận thức về thực
trạng đầu tư công dàn trải, lãng phí và quyết tâm muốn thay đổi, như những phát
biểu vừa qua trên Diễn đàn Quốc hội. Và cách đây 3 năm thì Thủ tướng đã ban hành
Chỉ thị 1792 mà Bộ trưởng Bùi Quang Vinh ví như một cú sốc đối với các địa
phương. Lần đầu tiên trách nhiệm cá nhân được nhắc đến, cụ thể nếu dự án không
bố trí đủ nguồn vốn mà người đứng đầu vẫn phê duyệt thì sẽ bị xử lý trách
nhiệm. Các anh nhìn nhận thế nào về hiệu quả của những quyết sách này?
T.S
Trần Đình Thiên: Bản chất
của chỉ thị 1792 là nhằm khắc phục cơ chế chia vốn dàn trải, tùy tiện. Dự án
chỉ được cấp cao nhất duyệt khi nguồn vốn cho dự án được cam kết rõ ràng và
trong một thời hạn xác định chứ không phải cam kết 100 năm sau. Chẳng hạn dự án
5 năm 100 tỷ thì 100 tỷ cam kết phân bổ trong 5 năm. Có thể 50 tỷ là ngân sách,
50 tỷ đi vay ngân hàng. Nhưng các ông ngân sách, ngân hàng đều phải ký xác nhận
vào đấy. Theo đó, chỉ thị 1792 nghe chừng là một bước tiến rất căn bản về mặt
cơ chế.
Tuy
nhiên, cơ chế xin-cho vẫn chưa được giải quyết. Như tôi đã nói từ đầu, nếu chỉ
giải quyết một khâu hay một số khâu thôi mà không giải quyết cả quá trình thì
vẫn có khả năng bị hỏng như thường.
Dĩ
nhiên, cách tiếp cận như 1792 có thể xem như một cánh chim báo bão để thay đổi
hệ thống. Nhưng tôi tin rằng cần phải có những xoay chuyển khác đi theo nó. Tái
cơ cấu đầu tư công chưa thực sự hiệu quả là do cốt lõi cơ chế phân bổ đầu tư
công chưa thay đổi, chứ không phải bằng cách cắt giảm nọ kia.
Cơ chế
nằm ở đâu? Nó nằm ở luật ngân sách. Hiện tại chúng ta mới làm xong dự thảo luật
để Quốc hội thảo luận lần đầu. Cho nên ngân sách vẫn phân bổ theo kiểu xin cho
được, không theo đúng chuẩn mực ngặt nghèo của thị trường. Như thế, vấn đề đặt
ra là phải đồng bộ tất cả những luật liên quan đến đầu tư công, như luật ngân
sách, luật quy hoạch, luật doanh nghiệp nhà nước…thì mới xử lý được vấn đề cơ
chế. Đáng lẽ cách tiếp cận phải là xử lý cả hệ thống luật, chùm luật liên quan
một cách đồng bộ, chứ không phải từng luật rời rạc như hiện nay. Chính phủ cũng
muốn thảo luận cả một chùm luật như thế vì khái niệm nền tảng giống nhau. Ta
tập trung vào tái cơ cấu đầu tư công thì các luật liên quan đến tái cơ cấu nên
xử lý đồng bộ, coi như đây là linh hồn cơ chế. Thế nên, tôi đề nghị Quốc hội
dành ra một phiên, hay một kỳ họp đặc biệt để tập trung làm mấy luật này. Chứ
nếu cứ chờ đến xuân thu nhị kỳ Quốc hội họp một lần, mà mỗi lần họp bao nhiêu
luật cần xử lý, luật nào cũng thấy cấp bách cả, thì không bao giờ xử lý được.
Làm luật dàn trải cũng thiếu hiệu quả như đầu tư dàn trải vậy. Nếu cứ triển
khai manh mún, rời rạc sẽ mất hiệu lực.
Cơ hội
của chúng ta đang rất lớn và nếu không làm thì nguồn lực sẽ suy kiệt và có thể
xin cho lại tăng lên.
(còn
tiếp)
Nhận xét